Select Menu

hot

Bài đăng nổi bật

TỦ SÁCH PHẬT HỌC DÀNH CHO SMARTPHONE

Trong cuộc sống hiện đại, sách điện từ đang dần thay thế sách giấy. Các tác phẩm Phật học, trong đó có Kinh Phật, cũng không ngoài quy luật ...

Tìm kiếm Blog này

random posts

Ads 180

Ads 180
Bán xe Ford Taurus

Popular Posts

Phật

Tăng

Thần Thông

Thiên Giới

Chùa

Đọa Xứ

Video

» » SUỐI NGUỒN TÂM LINH
«
Next
Bài đăng Mới hơn
»
Previous
This is the last post.



Mục lục

Lời tựa
Lời giới thiệu
   Các đệ tử tây phương
   Tầm quan trọng của chánh kiến và đức hạnh
   Phương pháp dạy dỗ
   Dạy dỗ người thế tục và dạy dỗ người xuất gia
   Tính khôi hài
   Những năm cuối cùng

Chương 1 - Vấn đề của tâm
Chương 2 - Những điều cơ bản
   Người muốn đắc đạo
   Đi theo phật pháp
   Trau dồi đức hạnh
   Phát triển định lực
   Sự phát sinh trí huệ
   Lợi ích của sự tu hành

Phần I - GIỚI LUẬT
Đức Hạnh và Thế Giới của Lục Căn
Chương 3 - Sống trong đạo pháp
Chương 4 - Tâm thiện lành
Chương 5 - Lục căn : cội nguồn của trí huệ
Chương 6 - Hiểu luật
Chương 7 - Duy trì những tiêu chuẩn tu hành
Chương 8 - Tại sao chúng ta ở đây?
Chương 9 - Cơn lũ dục vọng
Chương 10 - Hai mặt của thực tại
   Cái bẫy của lục căn
   Con đường thế gian và sự giải thoát
   Tu hành liên tục
   Lá cờ rỗng không
   Khu rừng của lục căn
   Đến tịnh xá
   Thoát ly sinh tử

Phần II - THIỀN ĐỊNH
Chương 11 - Món quà chánh pháp
Chương 12 - Sự quân bình nội tâm
Chương 13 - Sự hài hòa trong đạo
   Hiểm họa của định
Chương 14 - Điều phục tâm
Chương 15 - Nhận biết tâm
   Trí huệ trong đời sống
   Sự tinh cần
   Biết mình, biết người
   Lý thuyết và thực hành
   Thiền minh sát (Vipassanà)
   Thiền chỉ (Samatha)
   Tháo gỡ nút mắc
   Sự nhàm chán
   Tứ diệu đế
Chương 16
Chương 17
Chương 18
Chương 19
Chương 20
Chương 21
Chương 22

Phần III - TRÍ HUỆ
Chương 23 - Quán chiếu là gì
Chương 24 - Pháp tánh
Chương 25 - Sống với rắn hổ mang
Chương 26 - Trung đạo
Chương 27 - Sự bình an xuất thế gian
Chương 28 - Quy ước và giải thoát
Chương 29 - Không có điểm tựa
Chương 30 - Chánh kiến - một nơi mát mẻ
Chương 31 - Căn nhà thật của chúng ta
Chương 32 - Tứ Diệu Đế
Chương 33 - Kinh điển rỗng tuếch
Chương 34 - "Không chắc!" - tiêu chuẩn của bậc thánh nhân
Chương 35 - Dòng nước tĩnh lặng
Chương 36 - Sự siêu việt
Chương 37 - Vô duyên khởi
Chương 38 - Lời bạt

Phụ lục

^^^

Lời tựa


Thiền sư Ajahn Chah
     
Thật không biết làm thế nào để có thể giới thiệu với bạn một bậc minh triết khôn ngoan nhất mà tôi từng gặp. Trong sự hiện diện của ngài, người ta cảm nhận một sự gần gũi và sinh động, bình dị và chân thật, trang nghiêm và thân mật; sự khôi hài và kỷ luật nghiêm ngặt, lòng nhân từ vô biên và phong thái tự tại thanh thoát.
    
Phần lớn sự giảng dạy của Ajahn Chah là tùy duyên và tự phát qua thí dụ, ẩn dụ, hay những cuộc đối thoại sống động. Ngài thẳng thắn và thành thật. " Hãy quán xét nguyên nhân của sự khổ ở cảnh giới loài người này", ngài hướng chúng ta tới chân lý. Là một vị thầy khéo léo và tinh thông, với tính khôi hài và với sự sáng suốt, ngài đã sử dụng hàng trăm phương pháp khác nhau để dạy dỗ từng người, tùy vào tình huống trước mắt. Thật khó có thể diễn đạt hết sự dạy dỗ sống động của ngài bằng lời lẽ thế gian. May mắn thay, di sản của ngài cũng bao gồm gần hai trăm tu viện, nhiều đệ tử tuyệt vời còn sống và đang truyền pháp, hàng trăm cuốn băng thâu âm bằng tiếng Thái Lan và hàng triệu tín đồ ngưỡng mộ trí tuệ của ngài. 
   
Trong những trang sách sau, bạn sẽ tìm thấy một khía cạnh khác của Ajahn Chah - một con người kỷ luật và khá nghiêm ngặt, nhất là trong những thời pháp dài cho chư tăng ni và khách thập phương. Ngài thỉnh cầu tất cả mọi người suy ngẫm về cốt tủy của bài giảng và ghi nhớ nó nằm lòng. Trong cuốn sách này, ngài nhắc nhở chúng ta rằng, bất kể chúng ta là ai, đời sống đều tạm bợ: "Nếu sự chết nằm bên trong bạn, thì bạn đi đâu để lẩn tránh nó đây? Dầu bạn có sợ hay không, bạn cũng phải chết. Không có nơi nào có thể trốn tráng sự chết cả".
     
Vì thế, ngài chỉ cho chúng ta con đường để vượt lên trên sự sinh tử, dẫn đến sự tự do chân thật. "Điều quan trọng là: bạn phải quán chiếu cho đến khi bạn đạt tới một điểm mà bạn xả bỏ, nơi không có gì còn lại, vượt lên trên sự tốt xấu, đến đi và sinh diệt. Hãy điều phục tâm, ở lại nơi cảnh giới không còn nhân duyên sinh khởi, ngài thúc dục. "Sự giải thoát là điều có thể đạt được".
     
Những ai muốn làm theo lời dạy dỗ của người thầy đáng kính này phải sẵn sàng nhìn vào tâm của họ, thả lỏng những ràng buộc, thư dãn những bám víu, sự sợ hãi, và quan niệm sai lầm về tự ngã. "Nếu bạn thật sự hiểu, thì bất kể hoàn cảnh hiện tại của bạn là như thế nào, bạn đều có thể tu hành trong từng giây phút. Hãy thử xem". Ajahn Chah đề nghị. "Nó sẽ hoán chuyển đời sống của bạn!"


Lời giới thiệu

     
Đêm xuống nhanh. Khắp rừng văng vẳng tiếng dế cùng với tiếng rên rỉ sởn ốc của loài ve nhiệt đới. Dăm ba ngôi sao lờ mờ rọi xuyên qua ngọn cây. Giữa rừng, một căn nhà chòi được thắp sáng với hai cây đèn dầu, và ở nơi đó vài chục người đang ngồi quanh một nhà sư có vóc dáng nhỏ nhắn, chắc nịch, ngồi xếp bằng trên một chiếc ghế mây.

     
Đó là một đám đông đủ hạng người: gần bên Ajahn Chah (hay Luang Por, Đức Cha, lối xưng hô trìu mến của các đệ tử đối với ngài) là một nhóm tỳ kheo và sa di mà đa số là người Thái hay người Lào với vài người da trắng bao gồm một người Canada, hai người Mỹ, một người Úc, và một người Anh. Ngồi ngay trước mặt Ajahn Chah là một cặp vợ chồng độ trung tuần, ăn mặc tươm tất và sang trọng - người chồng là nghị sĩ của một tỉnh lị xa xôi. Nhân cơ hội đang công tác trong vùng này, họ đến để viếng thăm Ajahn và cúng dàng tu viện một ít tài vật.
   
Đàng sau họ và ở hai bên là một số dân cư địa phương. Quần áo của họ sờn hẳn và nước da sẫm đen, nhăn nheo - giống như mặt đất nghèo nàn nơi đó. Trong số họ, có vài người đã từng là bạn thuở ấu thời của Luang Por - cùng bắt cóc và leo cây; có những người từng được ngài giúp đỡ, và đã từng giúp đỡ ngài trước khi ngài là một tỳ kheo. Gần phía cuối là một nữ giáo sư từ Freiburg đến Thái Lan với một đồng đạo để nghiên cứu Phật pháp, và bên cạnh bà là một ni cô người Mỹ từ nhóm nữ tu của tu viện có trách nhiệm hướng dẫn bà và phiên dịch.
   
Kế đó là ba, bốn ni sư từ nhóm nữ tu, đến để thỉnh ý của Luang Por về một vấn đề liên quan đến cộng đồng phụ nữ và để thỉnh ngài ghé qua khu vực rừng của họ để thuyết giảng - lần cuối cùng ngài viếng thăm họ là cách đây bảy, tám ngày. Họ ngồi ở đó đã mấy tiếng đồng hồ rồi, nên họ lạy chào ngài và rời khỏi đó, cùng với những vị khách khác từ nhóm nữ tu - họ cần trở về trước khi trời tối và họ đã trễ rồi.
   
Phía cuối ở một bên phòng, nơi ánh sáng lờ mờ, là một người đàn ông độ ba mươi tuổi, vẻ mặt lạnh lùng. Gã ngồi hơi chếch qua một bên, như thể sự có mặt của gã nơi đó không thoải mái cho lắm. Bình thường,  gã rất ghét bất cứ thứ gì dính dácg đến tôn giáo, nhưng gã phải miễn cưỡng tôn trọng Luang Por, có lẽ vì Luang Por nổi tiếng là một người cứng cỏi và có khả năng nhẫn nại phi thường. Trong số những người tu hành, có lẽ chỉ có ngài mới là thứ thiệt - "nhưng ngài có lẽ là người duy nhất đáng để cúi đầu đảnh lễ trong khắp cái tỉnh thành này".
   
Gã tức giận và căm hận lắm. Cách đây một tuần, đứa em trai yêu quý của gã - một trong những thành viên của một đảng cướp trong vùng - đã mắc bệnh sốt rét não và chết trong vòng vài ngày. Gã đau lòng vô cùng, đến độ không còn thiết đến điều gì nữa. "Nếu hắn bị người ta đâm chết, ít nhất tôi còn có thể trả thù - nhưng tôi phải làm gì bây giờ: đi kiếm con muỗi đã cắn nó để giết sao?" "Tại sao không đến gặp Luang Por Chah?" Một người bạn đề nghị như thế. Và đó là lý do gã có mặt ở đây hôm nay.
   
Luang Por mỉm cười, nâng cao ly nước để làm rõ ý của ngài. Ngài nhận ra gã thanh niên trong bóng tối đó. Không bao lâu, bằng một cách nào đó, ngài đã dụ được gã nhích gần lên phía trước, như thể ngài đang kéo lưới một con cá tinh khôn và ương ngạnh. Điều xảy ra kế tiếp là, gã thanh niên ngoan cố gục đầu vào tay của Luang Por và khóc thảm thiết như một em bé; sau đó gã cười. Phải, gã cười chính sự kiêu mạn và uất hận của mình. Gã nhận ra rằng gã không phải là người đầu tiên và duy nhất đã tường mất đi người yêu – những giọt lệ tức giận và đau khổ trở thành những giọt nước mắt khuây khoả và hiểu biết.
   
Tất cả điều này xảy ra giữa hai mươi người hoàn toàn lạ mặt nơi đó, thế nhưng bầu không khí vẵn bình thản và đầy tin tưởng. Mặc dù họ đến từ đủ mọi tầng lớp trong xã hội, từ nhiều quốc gia khác nhau, nhưng có lẽ mọi ngươì đều cảm thấy rằng họ có cùng một cảnh ngộ „sing, lão, bệnh, tử”, và vì thế họ giống nhau như anh em cùng một nhà.
 
Cảng tượng này đã diễn ra rất nhiều, rất nhiều lần trong suốt thời gian ba mươi năm giảng dạy của Ajahn Chah, và thường thường vào những lúc như thế, có người đã biết trước và mang theo một cái máy thâu âm và nhờ thế họ đã ghi lại được phần nào những buổi thuyết pháp. Đó là nhữ gì được viết xuống trong cuốn sách này.
   
Cùng với những bài giảng dài như được viết lại nơi đây, người đọc cũng nên biết rằng, thường thì sự dạy dỗ của  Ajahn Chah rất tự nhiên. Khi thuyết giảng, ngài giống như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn nhạc và cùng lúc tạo ra những âm thanh hoàn toàn hài hòa với thiên nhiên và tâm trạng của những người chung quanh ngài, phối hợp với lời nói, cảm xúc và những nghi vấn trong lòng họ, và rồi để cho câu trả lời tuôn chảy một cách tự nhiên.
     
Ngài có thể đang chỉ dẫn cho một nhóm người nào đó cách thức để lột vỏ một trái xoài, và rồi quay sang mô tả bản chất rốt ráo của thực tại – với cùng một phong thái quen thuộc, nhẹ nhàng. Một phút này, ngài lạnh lùng và cộc cằn với một người tự mãn, nhưng phút sau, lại dịu dàng và khôi hài với một người nhút nhát. Ngài có thể đang cười đùa rả rích với một người bạn cũ trong làng, nhưng ngay sau đó, ngài có thể nhìn thẳng vào mắt viên cảnh sát tham nhũng và nói chuyện một cách nghiêm nghị về sự thanh liêm chíng trực trên đường tu hành. Vài phút sau đó, ngài có thể la rầy một tỳ kheo ăn mặc luộm thuộm, nhưng rồi lại để cái áo ngoài của mình tụt xuống khỏi vai để lộ cái bụng tròn trĩnh của ngài.
   
Dầu là trong một bài thuyết giảng chính thức hay trong những buổi họp mặt thông thường,  Ajahn Chah không bao giờ hoạch định trước bất cứ điều gì. Không một chữ nào từ những bài giảng cuả ngài trong cuốn sách này được sắp đặt trước khi ngài bắt đầu nói chuyện. Đây là một nguyên tắc vô cùng quan trọng.  Ajahn Chah cảm thấy rằng công việc của vị thầy là đứng qua một bên và để Giáo Phát tự nó phát khởi phù hợp với nhu cầu tức thời - „Nếu nó không sống trong hiện tại, nó không phải là Chánh Pháp”, ngài nói.
   
Có một lần, ngài mời một vị tăng trẻ tên là  Ajahn Sumedho (môn đệ người Tây phương đầu tiên của ngài) lên thuyết giảng trước đám đông tại tu viện chính, Wat Pah Pong. Đây là một khảo nghiệm gay go – không chỉ phải nói chuyện tới vài trăm người đã từng quen với lối thuyết giảng khôn ngoan và tinh xảo của  Ajahn Chah, mà còn phải giảng bằng tiếng Thái, một ngôn ngữ mà anh chỉ mới học ba, bốn năm trước. Anh sợ hãi, lo nghĩ đủ thứ. Anh từng đọc về Sáu Cảnh Giới trong vũ trụ quan của đạo Phật và sự tương quan giữa chúng và những tâm thái khác nhau (sự tức giận và các cảnh giới địa ngục, sự khoái lạc và các cảnh trời, v.v...). Anh quyết định rằng đây là một đề tài hấp dẫn và anh sắp đặt những ý tưởng của mình cho khúc chiết. Vào cái đêm quan trọng đó,  Ajahn Sumedho đã diễn thuyết một cách trôi chảy và được rất nhiều người trong tăng đoàn khen tặng. Anh ta cảm thấy nhẹ nhõm và rất hài lòng với chíng mình. Nhưng vài hôm sau, trong một giây phút im lặng ngắn ngủi, anh bắt gặp áng mắt của Ajahn Chah, và ngài nói nhẹ nhàng, „Đừng bao giờ làm như thế nữa”.


Các đệ tử tây phương


Ngay trước khi vị tăng trẻ người Tây phương  Ajahn Sumedho, đến để xin xuất gia dưới sự dạy dỗ của Ajahn Chah vào năm 1967, Ajahn Chah khởi động việc xây cất một nhà chòi mới trong rừng. Khi những cây gỗ dùng làm cột chòi được dựng lên, một dân làng trong nhóm thi công mới hỏi, „Luang Por à, tại sao xây cái nhà này cao thế? Đâu cần thiết chứ!”

Anh ta ngạc nhiên, bởi thường thì những cái cái chòi chỉ được xây cất vừa đủ cho một người ở một cách thoải mái – khoảng 2,5 mét chiều ngang, 3 mét chiều dài và mái nhà cao nhất là 2,1 mét.

''Đừng lo. Không lãng phí đâu”, Ajahn Chah trả lời. ''Không  bao lâu, sẽ có vài vị tăng tới đây. Họ cao hơn chúng ta rất nhiều”.
   
Vài năm sau khi Ajahn Sumedho đến Wat Pah Pong, thì tu viện bắt đầu tiếp nhận nhiều người nữa từ phương Tây đến với Ajahn Chah. Và rồi, vào năm 1976, Ajahn Sumedho được một nhóm người tại Luân Đôn mời đến để thiết lập một tu viện ở đây. Năm sau đó, Ajahn Chah ghé thăm tu viện này và để Ajahn Sumedho với một nhóm tăng nhỏ ở lại Hampstead Buddhist Vihar, một căn nhà trên một đường phố đông đúc tại bắc Luân Đôn. Vài năm sau, họ dời đến vùng thôn quê và thiết lập thêm nhiều chi nhánh khác.
   
Từ đó, nhiều đệ tử thâm niên của Ajahn Chah được tham gia vào công tác thiết lập những tu viện mới và truyền bá giáo pháp ở nhiều lục địa khác nhau. Nhiều tu viện đã mọc lên tại Pháp, Úc, New Zealand, Thụy sĩ, Ý, Canada, và Hoa Kỳ. Ajahn Chah cũng từng đi tới Âu châu và Bắc Mỹ hai lần, vào năm 1977 và 1979, và hết lòng ủng hộ những chi nhánh mới này. Có lần, ngài nói rằng Phật pháp tại Thái Lan giống như một thân cây từng mạnh khoẻ và sai trái, nhưng bây giờ nó đã già và chỉ có thể sinh ra vài trái nhỏ và chát. Còn Phật pháp ở phương Tây thì ngược lại, nó giống như một cây nhỏ tràn đầy sức sống và triển vọng, nhưng cần được chăm sóc đúng cách để có thể phát triển mạnh mẽ.
   
Trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ vào năm 1979, ngài nói, ''Anh quốc là một địa điểm thuận lợi để phát triển Phật pháp ở phương Tây, nhưng nền văn hoá nớ đó cũng đã xưa. Tuy nhiên, Hoa Kỳ, có năng lượng và sự linh động của một quốc gia trẻ trung – mọi thứ ở đây đều mới mẻ – chính nơi đây, Chánh Pháp mới có thể thực sự hưng thịnh”. Khi nói chuyện với một nhóm người Mỹ trẻ tuổi, những người mới thành lập một trung tâm thiền, ngài khuyến cáo, ''Các bạn chỉ có thể thành công trong công cuộc truyền bá Phật Pháp nơi đây nếu các bạn không ngại thách thức những ước muốn và định kiến của các thiền sinh. Nếu bạn làm thế, bạn sẽ thành công; nếu không, nếu bạn thay đổi lối giảng dạy và tu tập cho phù hợp với những thói quen và định kiến của con người vì muốn làm vừa lòng họ, bạn sẽ thất bại trong sứ mệnh phụng sự của mình”.


Tầm quan trọng của chánh kiến và đức hạnh


Khi được hỏi điều gì là yếu tố quan trọng nhất trong sự giảng dạy của ngài, Ajahn Chah thường trả lời rằng kinh nghiện cho thấy tất cả mọi tiến bộ về tâm linh phụ thuộc vào Chánh Kiến và Đức Hạnh. Nói về Chánh Kiến, Đức Phật có nói, ''Cũng như sự ửng đỏ trên bầu trời cho biết mặt trời sắp mọc, Chánh Kiến là điềm báo trước những trạng thái toàn thiện”. Để thiết lập Chánh Kiến có nghĩa là, trước hết, một người phải có một bản đồ đáng tin cậy về địa hình của tâm và thế giới – đặc biệt là sự hiểu biết về luật nhân quả – thứ hai, nó có nghĩa là một người nhìn thấy mọi kinh nghiệm dưới ánh sáng của Tứ Diệu Đế và vì thế đang chuyển mọi cảm nhận, ý tưởng, và tâm trạng thành nhiên liệu cho sự chứng ngộ. Bốn chân lý đó trở thành những phương hướng trên kim chỉ nam, dựa vào đó chúng ta phát triển sự hiểu biết của mình và từ đó hướng dẫn mọi hành động và ý muốn của chúng ta.
   
Ajahn Chah xem đức hạnh như là sự bảo vệ vĩ đại của tâm và khuyến khích mọi người nghiêm trì giới luật nếu họ thành tâm mong cầu một đời sống khôn ngoan và hạnh phúc – bất kể đó là ngũ giới của người tại gia hay Tám, Mười, hay 227 giới của người xuất gia. Hành động và lời nói có đạo đức khiến cho tâm hoà hợp với Chánh pháp và do đó trở thành nền tảng cho sự thiền định, chứng ngộ, và giải thoát.
   
Trong nhiều cách khác nhau, đức hạnh là kết quả tất yếu của Chánh Kiến, và chúng liên quan mật thiết với nhau: nếu chúng ta hiểu lý nhân quả và nhìn thấy mối quan hệ giữa sự tham muốn và đau khổ, lẽ dĩ nhiên hành động của chúng ta sẽ hài hoà và kiềm thúc hơn. Cùng thế ấy, nếu hành động và lời nói của chúng ta chân thật, khiêm tốn, thanh nhã và bất bạo động, chúng ta sẽ gây ra nhân hoà bình trong tâm, và chúng ta sẽ dễ nhìn thấy những quy luật điều hành tâm và động thái của nó, và Chánh Kiến sẽ phát triển dễ dàng hơn.
   
Một kết qủa đặc thù của mối quan hệ này, điều mà Ajahn Chah đề cập đến trong bài pháp ''Quy Ước và sự giải thoát”, là thực chất trống rỗng của tất cả mọi quy ước (tiền bạc, quy chế tu hành, tục lệ xã hội, v.v...) và cùng lúc là sự cần thiết phải tôn trọng chúng hoàn toàn. Điều này nghe có vẻ mâu thuẫn, nhưng Ajahn Chah nhìn thấy Trung Đạo như là giải pháp duy nhất cho vấn đề rắc rối này. Nếu chúng ta bám vào những quy ước, chúng ta bị đè nặng và giới hạn bởi chúng, nhưng nếu chúng ta cố chống lại hay phủ nhận chúng, chúng ta cảm thấy bối rối và mâu thuẫn. Ajahn Chah nhìn thấy điều đó, với thái độ đúng đắn, cả hai khía cạnh có thể được tôn trọng, và trong một cách tự nhiên, thoải mái, thay vì cưỡng ép hay thỏa hiệp.
   
Với sự hiểu biết sâu sắc, Ajahn Chah có thể vừa rất kỷ cương và nghiêm khắc như một nhà sư Phật giáo, nhưng đồng thời cũng rất thư thái và không bị trói buộc bởi những giới luật mà ngài quy định. Đối với nhiều người đã từng gặp ngài, ngài là người đàn ông hạnh phúc nhất thế gian – một sự thật có vẻ mỉa mai đối với một người không hề biết đến tình yêu nam nữ trong đời, không có tiền, không bao giờ nghe nhạc, và thường phải tiếp khách từ 18 đến 20 tiếng đồng hồ mỗi ngày, ngủ trên một chiếc chiếu mỏng, mắc bệnh tiểu đường và nhiều chứng sốt rét khác nhau, và có lẽ là người duy nhất cảm thấy vui thích khi có người gọi Wat Pah Pong là nơi có ''thức ăn dở nhất thế giới”.


Phương pháp dạy dỗ


Ajahn Chah dùng vô số phương cách khác nhau để huấn luyện các đệ tử của mình. Ngoài những chỉ thị bằng miệng qua những buổi thuyết giảng, phần lớn tiến trình dạy dỗ xảy ra tại chỗ. Ngài nhận ra rằng, để tâm có thể thật sự học hỏi bất cứ khía cạnh nào của giáo lý và thay đổi, bài học cần được lĩnh hội qua kinh nghiệm, không chỉ trên lý thuyết. Vì thế, Ajahn Chah tận dụng cả 10.000 sự kiện và khía cạnh của đời sống tăng đoàn để dạy dỗ và rèn luyện các đệ tử của mình: các dự án cộng đồng, việc tụng đọc các quy luật, việc giúp đỡ với công việc hàng ngày, những thay đổi thất thường trong thời biểu sinh hoạt – tất cả những thứ này và nhiều hơn nữa đã được các thiền sinh sử dụng như một khán đài để khảo sát sự phát sinh khổ đau và con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau.
   
Ajahn Chah khuyến khích thái độ sẵn sàng học hỏi từ mọi thứ, như ngài nói trong bài pháp ''Bản chất của Pháp”. Ngài nhấn mạnh rất nhiều lần rằng chúng ta là thầy của chính mình: nếu chúng ta khôn ngoan, mọi vấn đề cá nhân, mọi sự kiện và khía cạnh của thiên nhiên sẽ dạy dỗ chúng ta; nếu chúng ta ngu dại, dầu Đức Phật có đứng ngay trước mặt mà giải thích mọi thứ cũng chẳng có tác dụng gì. Cách Ajahn Chah  trả lời những câu hỏi của mọi người đã phản ảnh quan điểm này – ngài ứng xử tùy thuộc vào tình huống của một người nhiều hơn là trả lời câu hỏi của họ theo kiểu họ muốn. Thường thì khi người ta hỏi  điều gì, ngài tiếp nhận câu hỏi, rồi nhẹ nhàng mổ xẻ nó ra thành từng mảnh, và trao lại cho người hỏi. Họ sẽ tự mình biết sắp đặt chúng trở lại và họ thật sự ngạc nhiên là ngài đã hướng dẫn họ trả lời cho câu hỏi của chính mình. Khi người ta hỏi làm sao ngài có thể thường xuyên làm được như thế, ngài trả lời: ''Nếu người ta không sẵn đã biết câu trả lời, họ đã chẳng thể đặt câu hỏi”.
   
Những thái độ tu học quan trọng khác mà Ajahn Chah khích lệ bao gồm, trước nhất, thiền sinh phải tập nhìn thấy sự cấp bách trong việc hành thiền, và thứ hai, phải sử dụng môi trường tu học để phát triển tính nhẫn nại.
   
Khi Đức Phật nói bài pháp đầu tiên của ngài về kỷ luật xuất gia cho 1,250 đệ tử khai ngộ của ngài trong vườn Trúc Lâm, những lời mở đầu của ngài là: ''Sự nhẫn nại là pháp tu tối thượng để giải thoát tâm khỏi những sự bất thiện”. Cho nên khi có người đến gặp  Ajahn Chah, than van về người chồng say sưa hay vụ lúa mất mùa của họ, phản ứng đầu tiên của ngài thường là: ''Bạn có thể nhẫn nại điều đó không?”. Ngài muốn họ nhận ra rằng cách thoát khổ không phải là trốn chạy nó, chìm đắm trong nó, hay cắn răng chịu đựng nó – không phải vậy – nhẫn nại là bình thản giữa khó khăn, thật sự hiểu biết và suy ngẫm về cái kinh nghiệm khổ, hiểu biết nguyên nhân của sự khổ và buông bỏ chúng.


Dạy dỗ người thế tục và dạy dỗ người xuất gia


Có những lúc sự giảng dạy của  Ajahn Chah áp dụng cho người thế tục lẫn người xuất gia, nhưng có những lúc nó chỉ áp dụng riêng cho người xuất gia hay người thế tục thôi. Người đọc nên lưu ý đến điều này khi đi qua những bài pháp trong sách này, bởi không biết sự khác biệt đó có thể gây nên sự hoang mang. Chẳng hạn, bài pháp ''Tâm Thiện Lành” đặc biệt nhắm vào những người tại gia đến Wat Pah Pong hôm đó để cúng dường, trong khi những bài pháp như ''Cơn Lũ Dục Lạc” chỉ dành riêng cho người xuất gia.
   
Sự khác biệt này không phải là vì có những giáo lý ''bí truyền” hay cao thêm hơn về phương diện nào đó, nhưng bởi vì người tại gia và xuất gia có những nhu cầu và lối sống khác nhau, chẳng hạn, người tại gia có những vấn đề mà người xuất gia không có: tìm thời gian để ngồi thiền, lo lắng sinh kế, chung sống với người phối ngẫu. Một đệ tử tại gia trung bình của Ajahn Chah chỉ cần giữ Năm Giới, trong khi người xuất gia phải giữ Tám, Mười, hay 227 giới luật tùy vào trình độ thọ pháp khác nhau.
   
Những buổi nói chuyện với người xuất gia thường mạnh mẽ hơn những buổi giảng thuyết tới người tại gia, chẳng hạn, bài ''Pháp Chiến”. Lối nói chuyện ''không nhận tù binh” này là phẩm chất đặc thù của những vị thầy trong phái Thái Forest Tradition (Phái Thiền Trong Rừng của Thái Lan), với mục đích khơi dậy ''dũng khí”, khiến cho thiền sinh sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ và trở nên khôn ngoan, nhẫn nại, kiên định trong bất kỳ tình huống nào.
   
Như Ajahn Chah từng nói: ''Tất cả những ai thành khẩn trong việc tu hành nên chuẩn bị tinh thần để chịu đựng rất nhiều chướng ngại và khảo nghiệm. Tâm bị buộc phải đi ngược lại những thói quen cũ, cho nên lẽ tất nhiên nó sẽ vật vã, đấm đá lung tung”.
   
Một điều quan trọng nữa là, Ajahn Chah không hề giữ lại một điều gì riêng cho người xuất gia. Nếu ngài cảm thấy một nhóm người nào đó đã sẵn sàng để tiếp nhận những giáo lý cao thâm hơn, ngài sẽ truyền đạt chúng một cách cởi mở và tự nhiên bất kể thính giả là người tại gia hay xuất gia, chẳng hạn như bài ''Cảnh Giới Vô Duyên Khởi” hay bài ''Hãy Tĩnh Lặng Dòng Nước Chảy”, mà trong đó ngài phát biểu: ''Con người thời nay nghiên cứu học hỏi, tìm kiếm điều thiện, ác, nhưng họ chẳng biết gì về cái vượt lên trên sự thiện ác”. Giống như Đức Phật, Ajahn Chah chỉ nói những gì ngài biết là hữu ích đối với người nghe, chứ không dựa vào số lượng giới luật của họ hay tôn giáo của họ.


Tính khôi hài

Tính khôi hài là một phẩm chất đặc biệt trong lối giảng dạy của  Ajahn Chah. Ngài là một người vô cùng bén nhạy và là một kịch sĩ tài ba. Mặc dầu ngài có thể rất dửng dưng và lạnh nhạt, hoặc mẫn cảm và dịu dàng trong cách diễn đạt, nhưng ngài cũng rất khôi hài trong sự giảng dạy của ngài. Phong cách dí dỏm của ngài không chỉ làm cho người nghe vui thích, mà còn giúp ngài truyền đạt những chân lý mà lẽ ra rất khô khan và khó tiếp nhận bởi một người trung bình.
   
Tính khôi hài và cặp mắt tinh đời của ngài giúp cho người ta nhận thấy sự vô lý và ngớ ngẩn trong cuộc sống hay trong vấn đề của họ, khiến cho họ có thể cười chính mình và có một cái nhìn hiểu biết hơn. Chẳng hạn, có lần Ajahn Chah đưa cho mọi người xem một bức tranh biếm họa diễn tả cách một nhà sư mang túi xách của mình: vác trên lưng, cột quanh cổ, ghì trong tay, kéo lết trên đất... Hay nó có thể là về một sự phấn đấu cực khổ nào đó. Một bữa nọ, có một tỳ kheo trẻ đến gặp ngài với vẻ chán đời. Anh đã chứng kiến những khổ đau của thế gian và ghê sợ sự sinh tử luân hồi bất tận. Anh nhận xét, ''Con không thể nào cười nổi nữa – đời sống chỉ toàn là đau khổ và phiền não”. Trong vòng 45 phút, qua một câu chuyện sinh động về một con sóc nhỏ học trèo cây – cứ leo lên rồi tụt xuống, nhà sư trẻ ôm bụng cười lăn trên đất, cười đến chảy nước mắt mà vẫn không dừng được.


Những năm cuối cùng


Trong kỳ kiết hạ năm 1981,  Ajahn Chah ngã bệch nặng. Những năm cuối cùng, sức khỏe của ngài đã yếu hẳn – với chứng chóng mặt và bệnh tiểu đường – và bây giờ là một sự sụp đổ thình lình. Trong vòng vài tháng sau đó, ngài được chữa trị bằng nhiều cách, nhưng tình trạng không thuyên giảm. Sức khỏe ngài tiếp tục suy sụp, cho đến giữa năm sau thì ngài bị tê liệt hoàn toàn ngoại trừ đôi chút cử động ở bàn tay. Ngài không còn nói chuyện được nữa, nhưng vẫn có thể nháy mắt.
   
Ngài ở lại trong tình trạng này trong suốt mười năm sau đó, và vài vùng cơ thể còn điều khiển được cũng từ từ yếu dần, cuối cùng thì ngài không còn cử động gì được nữa. Trong thời gian này, ngài vẫn tiếp tục dạy dỗ các đệ tử của mình: không phải ngài đã từng nhắc đi nhắc lại rằng bản chất của thân thể là bệnh hoạn và mục nát hay sao? Đây là một bài học quan trọng – dầu là một vị chân sư vĩ đại, hay ngay cả Đức Phật cũng không thể trốn tránh những quy luật bất di bất dịch của thiên nhiên. Cho nên, công việc của chúng ta là tìm kiếm sự bình an và giải thoát bằng cách không đồng hóa mình với những hình dáng luôn thay đổi này.
   
Trong thời gian này, ngoài việc làm một thí dụ điển hình cho sự bất ổn và tạm bợ của đời sống và cho chư tăng cơ hội để chăm sóc cho ngài, đôi lúc  Ajahn Chah vẫn tìm cách dạy dỗ trong những cách khác, dầu với tình trạng vô cùng giới hạn của mình. Các tỳ kheo thay phiên nhau chăm sóc cho những nhu cầu thể chất của ngài 24 tiếng đồng hồ mỗi ngày.  Trong một ca trực nọ, hai tỳ kheo gây gổ với nhau, quên mất rằng người thứ ba trong phòng có thể hiểu rõ tất cả những gì đang xảy ra.
Nếu Ajahn Chah còn khỏe mạnh, họ sẽ chẳng dám cãi vã như thế trước mặt ngài.
Lời qua tiếng lại càng lúc càng gay gắt, thì có tiếng động phát sinh từ cái giường trong phòng. Thình lình, Ajahn Chah ho thật mạnh và, theo lời kể, văng ra một cục đờm lớn bay ngang phòng xuyên qua khoảng không giữa hai người đang cãi lộn và đập cái bốp vào bức tường ngay bên cạnh họ. Sự dạy dỗ được tiếp nhận đúng lúc, và cuộc cãi vã dứt ngang một cách sượng sùng.
   
Trong suốt thời gian Ajahn Chah nằm trên giường bệnh, sinh hoạt của tu viện vẫn tiếp diễn như trước. Vị thầy vẫn còn đó mà không ở đó, nhưng tình huống này đã giúp đỡ một cách kỳ diệu cho chư tăng tập làm những quyết định chung và thích nghi với một lối sống thiếu vắng sự hướng dẫn của vị thầy kính yêu. Thường thì sau khi một vị thầy vĩ đại như thế qua đời, sự tu hành thoái hóa nhanh chóng, học trò bỏ đi dần, và rồi chỉ trong vòng một hai thế hệ, sự giảng dạy của vị thầy cũng biến mất. Thế nhưng, trong suốt khoảng thời gian Ajahn Chah bị bệng cho đến lúc ngài qua đời, số tu viện chi nhánh đã tăng lên hơn cả trăm trên khắp thế giới. Đây là một minh chứng hùng hồn cho sự huấn luyện đệ tử khéo léo của Ajahn Chah.
   
Sau khi ngài qua đời, cách đây mười năm, đoàn thể xuất gia của Ajahn Chah đã tổ chức tang lễ theo tinh thần sống và giảng dạy của ngài. Tang lễ, vì thế, không chỉ là một nghi lễ truyền thống, mà còn là một thời gian để lắng nghe và tu hành. Nghi lễ diễn ra trong suốt mười ngày với những thời thiền nhóm và vài khóa thuyết giảng mỗi ngày bởi nhiều vị thầy nổi tiếng trong nước. Có khoảng 6,000 chư tăng, 1,000 ni sư, và trên 10,000 người tại gia cắm trại trong rừng trong suốt thời gian này. Ngoài ra còn có khoảng 1,000,000 quan khách viếng thăm, và 400,000 người, kể cả đức vua, hoàng hậu và thủ tướng của Thái Lan đã đến dự lễ hoả táng.
   
Trong mười ngày này, tất cả thức ăn cùng với rất nhiều kinh sách được cung cấp và chuẩn bị bởi nhiều tu viện chi nhánh, và phân phát miễn phí tới khách thập phương; nước uống đóng chai được một công ty địa phương cung cấp; một hãng xe buýt và những chủ nhân xe tải gần đó đã chuyên chở miễn phí hàng ngàn tăng ni mỗi buổi sáng để đi khất thực chung quanh các thôn làng và phố xá trong vùng. Đó thật là một buổi lễ long trọng và xứng đáng để chia tay với một bậc minh triết.

Nguyện mong những sự giảng dỗ này có thể bồi dưỡng tâm của người tầm Đạo và kiên định tâm những kẻ đã thức tỉnh, thuần khiết và bình an.


Chương 1 

Vấn đề của tâm



„Sự tu hành của chúng ta chỉ là 
để nhìn thấy cái Tâm nguyên thuỷ”




Vấn đề của tâm là – thật sự thì không có gì trục trặc với nó cả. Bản chất của nó là như vậy, nó thuần khiết. Tự nó sẵn đã bình an. Nếu có những lúc tâm không an, đó là bởi vì nó chạy theo cảm xúc. Tâm bẩm sinh không có gì cả. Nó trở nên bình an hay kích động chỉ vì nó bị cảm xúc lừa gạt. Tâm chưa được huấn luyện rất khờ dại. Lục trần cho nó những ảo giác về hạnh phúc và đau khổ, nhưng bản chất của tâm không có những thứ này.   Hạnh phúc hay đau khổ không phải là tâm, mà chỉ là một cảm xúc đang lừa gạt chúng ta. Tâm chưa được huấn luyện dễ bị đáng lạc hướng và chạy theo những thứ này. Nó quên chính nó. Rồi chúng ta nghĩ rằng đó chính là chúng ta đang tức giận hay vui sướng hay gì đó.

Nhưng thật sự thì tâm của chúng ta đã sẵn tĩnh lặng và bình an! Giống như chiếc lá vẫn đứng im chừng nào nó chưa bị gió thổi. Nếu gió đến, chiếc lá đong đưa. Sự đong đưa là do gió – sự đong đưa của tâm là do lục trần; tâm chạy theo chúng.

Sự tu hành của chúng ta chỉ là để nhìn thấy cái „Tâm Nguyên Thuỷ”. Chúng ta phải huấn luyện tâm để nhận biết lục trần và không bị chúng đáng lạc hướng, để tâm được bình an. Đây chính là mục đích của tất cả những sự tu hành cam khổ mà chúng ta phải trải qua.


Chương 2

Những điều cơ bản


Khi cả ba pháp, giới, định, huệ 
đều được phát triển, chúng ta gọi 
sự tu hành này là Bát Chánh Đạo,
là con đường duy nhất để thoát khổ.
Bát Chánh Đạo là pháp môn tối thượng 
bởi vì, nếu được thực hành đúng đắn,
nó sẽ dẫn đến Niết bàn, 
đến sự bình an rốt ráo.



Chúng ta tiếp cận với giáo lý nhà Phật qua nhiều nguồn - những vị thầy hay tăng sỹ khác nhau, chẳng hạn. Có những lúc Phật Pháp chỉ được giảng dạy một cách rất đại cương và mơ hồ, khiến cho việc áp dụng nó vào đời sống thực tiễn trở nên khó khăn. Có những lúc Phật Pháp được giải thích bằng một ngôn ngữ cao thâm và trừu tượng khiến cho người ta khó hiểu, nhất là khi nó dựa hoàn toàn vào mặt chữ trên kinh điển.

Có một lối giảng dạy khác, đó là khi Phật Pháp được trình bày một cách trung dung, không quá trừu tượng, không quá cao thâm, không quá đại cương và cũng không quá bí truyền - chỉ vừa đúng để người nghe có thể lĩnh hội và thực hành. Ở đây, tôi muốc chia sẻ một ít giáo lý mà tôi thường dùng để chỉ dạy các đệ tử của tôi.


Người muốn đắc đạo


Những ai muốn chứng đắc đạo (1) (giác ngộ Phật Pháp) phải là người có đức tin và sự tự tin làm nề tảng.  chúng ta phải hiểu ý nghĩa của Phật Pháp như sau:

Phật: "người biết", người có được sự thuần khiết, chiếu sáng, và sự bình an trong tâm.

Pháp: Những tính chất thuần khiết, chiếu sáng, và bình an, phát sinh từ giới, định, huệ (2). Thế nên, người đắc đạo là người trao dồi và phát triển giới, định, huệ.

(1): Đạo được hiểu là "chân lý tuyệt đối", là "nguyên lý cuối cùng của vũ trụ". Đạo được xem là đồng nghĩa với Phật Pháp, là con đường đưa chúng sinh đến Niết bàn. "Đắc Đạo" là những danh từ đồng nghĩa vơí Giải thoát, chứng Niết bàn, hay sự Giác ngộ của Phật giáo.
(2): Giới, định, huệ là giới luật, thiền định và trí huệ. Xem phụ lục Giới, định, huệ.


Đi theo phật pháp


Những người muốn đi về nhà là những người không chỉ ngồi đó mà suy nghĩ về chuyến du hành của mình. Họ phải trải qua một tiến trình du hành từng bước một và theo đúng hướng. Nếu họ đi sai hướng, họ có thể gặp nhiều khó khăn như đầm lầy, hầm hố, hay những chướng ngại khác. Họ cũng có thể rơi vào những tìng huống nguy hiểm và có thể sẽ không về được đến nhà. Những người đã về được đến nhà có thể nghỉ ngơi và ngủ một cách thoải mái - nhà là một nơi khoan khoái đối với thể xác và tâm trí. Nhưng nếu người du hành đó, thay vì đi về nhà, lại đi quá căn nhà của họ hay chỉ đi chung quanh nó , họ sẽ chẳng nhận được lợi ích gì từ chuyến đi nhọc nhằn của họ.

Cùng thế ấy, chứng ngộ Phật Pháp là một việc mà mỗi chúng ta phải tự mình làm lấy, bởi không ai có thể làm điều đó cho chúng ta. Và chúng ta phải đi đúng đường - con đường của đức hạnh, thiền định và trí huệ cho đến khi chúng ta đạt được một đầu óc thuần khiết, chiếu diệu và bình an. Đây là kết quả của hành trình tầm Đạo của chúng ta,

Nhưng nếu một người chỉ có kiến thức từ sách vở và kinh điển, chỉ nghe thuyết pháp và tụng kinh - có nghĩa là, chỉ có bản đồ và kế hoạch cho cuộc hành trình - kẻ đó sẽ chẳng bao giờ biết được sự thuần khiết, chiếu diệu và bình an trong tâm, dầu anh ta sống cả trăm kiếp nữa. kẻ đó sẽ chỉ lãng phí thời gian và không bao giờ nhận được lơị ích từ sự tu hành. Vị thầy chỉ có thể trình bày Đạo pháp. Cho nên, chúng ta có tầm Đạo bằng sự tu hành, và có đạt được kết quả hay không, tuỳ thuộc hoàn toàn vào mỗi chúng ta.

Sau đây là một cách khác để nhìn vào sự việc này. Sự tu hành giống như những lọ thuốc mà vị y sĩ đưa cho bệnh nhân của mình. Lọ thuốc có chỉ dẫn cách dùng trên mặt. Nhưng nếu bệnh nhân chỉ đọc phần chỉ dẫn, ngay cả đọc tới đọc lui cả trăm lần, họ cũng sẽ chết. Họ sẽ chẳng nhận được lợi ích gì từ lọ thuốc đó. Và trước khi họ chết, họ có thể chê trách rằng vị y sĩ đó không đủ giỏi, rằng ông ta chỉ là một lang băm, rằng thuốc không có công hiệu. Tuy nhiên, tất cả những gì họ đã làm là xem xét lọ thuốc và đọc phần chỉ dẫn, mà không làm theo lời khuyên của vị y sĩ và uống thuốc.

Nhưng nếu bệnh nhân thật sự làm theo lời của vị y sĩ và uống thuốc đều đặn như được chỉ dẫn, họ sẽ bình phục. Nếu họ bị bệnh nặng, họ có lẽ phải uống rất nhiều thuốc, nhưng nếu họ chỉ bệnh nhẹ thôi, thì chỉ cần uống một chút thuốc là khỏe rồi. Cho nên, nếu chúng ta phải dùng rất nhiều thuốc, đó là vì chúng ta bị bệnh quá nặng. Chỉ giản dị như vậy thôi.

Các y sĩ kê toa thuốc để loại trừ bệnh khỏi cơ thể. Giáo lý của Đức Phật được đưa ra để chữa lành những căn bệnh của tâm, để mang nó trở lại tình trạng lành mạnh nguyên thủy của nó. Vì thế, Đức Phật có thể được xem như là một y sĩ, người kê toa thuốc để chữa trị tâm bệnh. Ngài mới thật là vị y sĩ tài tình nhất thế gian.

Mỗi chúng ta đều có một vài thứ tâm bệnh nào đó. Khi bạn nhìn thấy những tâm bệnh này, tìm đến Phật Pháp như là sự nâng đỡ, như là liều thuốc chữa trị cho bạn không phải là điều khôn ngoan nhất hay sao? Bạn phải đi đường của Phật Pháp bằng thân thể của mình. Bạn phải đi bằng đầu óc hay tâm của mình. Những người đi trên Con Đường có thể được phân chia ba trình độ:

Trình độ đầu tiên bao gồm những người hiểu rằng họ phải tự mình tu hành và họ biết cách tu hành. Họ nương tựa vào Phật, Pháp, Tăng và chuyên cần tu tập theo đúng như sự chỉ dẫn của vị thầy. Những người này không còn lệ thuộc vào những tập tục cổ truyền, mà họ dùng lý trí để xem xét bản chất của thế gian. Đây là nhóm người “Phật tử”.

Trình độ thứ hai bao gồm những người đã tu hành cho đến khi họ đạt được một đức tin vững chắc vào giáo lý của Phật, Pháp, Tăng. Họ cũng đã liễu ngộ bản chất thật sự của vạn pháp. Những người này dần dần giảm thiểu mọi sự ràng buộc và dính mắc. Họ không bám chặt vào sự việc, và sự hiểu biết Phật Pháp của họ đã đạt đến một mức độ thâm sâu. Tùy vào trí huệ và mức độ xả bỏ của họ, mà họ được xếp vào hàng Tu đà hoàn , Tư đà hàm , hay A na hàm , hay nói chung là những Thánh Nhân.

Ở trình độ cao nhất là những người mà sự tu hành đã chuyển thân, khẩu, ý của họ đến cảnh giới của Phật. Họ vượt trên thế gian, không còn phải trở lại thế gian, và không còn bất cứ sự ràng buộc và dính mắc nào nữa. Họ là những A la hán , là những thánh nhân đã đạt quả vị Niết bàn , đoạn diệt sinh tử.


Trau dồi đức hạnh


Giới hạnh là sự kiềm thúc thân và khẩu. Có những giới luật khác nhau được quy định cho người tại gia và người xuất gia. Tuy nhiên, nói chung thì chúng đều dựa trên cùng một cơ sở - đó là ý định. Khi chúng ta tỉnh thức và điềm tĩnh, chúng ta có Chánh Tư Duy . Thực tập Chánh Niệm sẽ phát sinh đức hạnh trong sáng và cao thượng.

Nếu chúng ta mặc quần áo dơ, thì lẽ tự nhiên thân thể chúng ta cũng bị dơ, đầu óc chúng ta sẽ bứt rứt và khó chịu. Nhưng nếu chúng ta giữ cho thân thể của mình sạch sẽ, ăn mặc tươm tất, đầu óc của chúng ta sẽ cảm thấy nhẹ nhàng và vui vẻ. Cùng thế ấy, khi chúng ta không gìn giữ đức hạnh, thân và khẩu bị ô nhiễm, chúng ta sẽ cảm thấy phiền não, bứt rứt và nặng nề. Chúng ta rời xa lối tu hành đúng đắn và không thể chứng ngộ cốt tủy của Pháp. Những hành động và lời nói trong sáng tùy vào tâm của chúng ta có được huấn luyện tốt hay không, bởi đầu óc điều khiển thân và khẩu. Cho nên, chúng ta phải tiếp tục tu hành bằng cách điều phục tâm của mình


Phát triển định lực


Phát triển định lực để làm cho đầu óc vững vàng và kiên định. Điều này mang lại sự bình an trong tâm. Tâm chưa được huấn luyện thường rất hiếu động và khó điều khiển. Nó chạy lăng xăng theo trần cảnh, giống như dòng nước lúc chảy qua bên này, lúc chảy qua bên kia, tìm kiếm những nơi thấp nhất. Các nông gia và kỹ sư nông nghiệp biết cách điều khiển dòng nước để có thể sử dụng nó một cách hữu hiệu cho xã hội và con người: họ xây đập ngăn sông, tạo ra những bể chứa nước và những con kênh lớn - tất cả những việc này là chỉ để dẫn nước tới những nơi cần thiết. Nước chứa cũng có thể trở thành nguồn phát điện và ánh sáng. Bằng cách đó, nước không chảy rối loạn hay lụt lội tại những vùng đất thấp, và bị lãng phí.

Cùng thế ấy, tâm được kiềm chế và huấn luyện liên tục sẽ là một công cụ vô cùng hữu ích. Chính Đức Phật có nói, “Tâm được điều phục sẽ mang đến chân hạnh phúc, vì thế hãy điều phục tâm của ngươi cho tốt để đạt được những lợi ích cao nhất”. Tương tự như vậy, những thú vật chung quanh chúng ta như voi, ngựa, trâu, bò - cần phải được huấn luyện trước khi chúng có thể dùng để làm việc. Chỉ khi đó sức mạnh của chúng mới thật sự mang lại lợi ích cho chúng ta.

Tâm được huấn luyện sẽ mang lại cho chúng ta nhiều phúc lành hơn một cái tâm chưa được huấn luyện. Đức Phật và các cao đồ của ngài đều có cùng một khởi đầu như chúng ta - với tâm chưa được huấn luyện. Nhưng sau này, họ đã trở thành những bậc thánh, những người mà chúng ta tôn kính và học hỏi rất nhiều từ sự giảng dạy của họ. Tâm được kiềm thức và huấn luyện có thể giúp cho chúng ta tốt hơn trong mọi lãnh vực, trong mọi tình huống. Tâm được huấn luyện sẽ giúp cho đời sống của chúng ta quân bình, khiến cho công việc của chúng ta dễ dàng hơn và phát triển khả năng lý luận để kiềm chế hành động của chúng ta. Nhờ thế, chúng ta sẽ ngày càng hạnh phúc hơn.

Sự nhiếp phục tâm có thể được thực hiện qua nhiều cách, với nhiều phương pháp khác nhau. Phương pháp thông thường nhất mà mọi người đều có thể thực hành, là sự chánh niệm về hơi thở, tức là phát triển khả năng nhận biết hơi thở, tức là phát triển khả năng nhận biết hơi thở vào và hơi thở ra.

Trong tu viện này, chúng ta tập trung sự chú ý của mình vào chót mũi và phát triển sự ý thức về hơi thở vào và ra với câu thần chú Bud-dho. Thiền sinh cũng có thể sử dụng một chữ khác, hay chỉ nhận biết sự chuyển động ra vào của hơi thở. Điều chỉnh sự tu tập cho phù hợp với mình. Điều chủ yếu là, thiền sinh nhận thức hơi thở của mình trong thời hiện tại, có nghĩa là nhận biết mỗi hơi thở ra và hơi thở vào ngay khi nó mới vừa xảy ra. Trong khi đi kinh hành, chúng ta cố gắng nhận biết những cảm giác của bàn chân khi chúng chạm vào mặt đất.

Để có kết quả, sự hành thiền phải được thực tập liên tục, nếu có thể được. Đừng thiền một chút hôm nay, và rồi sau một, hai tuần lễ, hay một, hai tháng mới thiền lại. Tu hành như vậy sẽ không có kết quả tốt. Đức Phật dạy chúng ta tu hành thường xuyên và chuyên cần, có nghĩa là tu hành càng liên tục càng tốt. Để tu tập có hiểu quả, chúng ta phải tìm một nơi yên tĩnh, và không bị quấy nhiễu, chẳng hạn như một khu vườn, dưới bóng mát của một cái cây trong sân sau nhà của chúng ta, hay bất cứ nơi nào mà chúng ta có thể ngồi yên tĩnh một mình. Nếu chúng ta là tăng ni, chúng ta nên tìm chòi trong rừng hay một hang động. Vùng rừng núi vắng vẻ cũng là một nơi rất thích hợp cho sự tu hành.

Trong bất kỳ trường hợp nào hay ở bất cứ nơi nào, chúng ta đều phải cố gắng duy trì chánh niệm về hơi thở một cách liên tục. Nếu sự chú ý của chúng ta đi lạc, hãy kéo nó trở lại với đối tượng của sự tập trung. Cố gắng đặt tất cả những tư tưởng khác qua một bên. Đừng nghĩ đến bất kỳ điều gì - chỉ việc quan sát hơi thở mà thôi. Nếu chúng ta nhận biết một tư tưởng thiền hành của mình, thì dần dần đầu óc sẽ trở nên yên lặng. Khi đầu óc đã bình an và tập trung, đừng cột nó vào hơi thở nữa.
Bây giờ, hãy bắt đầu quan sát thân và tâm như một thực thể được cấu tạo bởi ngũ uẩn : sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Hãy xem xét ngũ uẩn này đến và đi. Bạn sẽ nhận thấy rõ rằng chúng vô thường, và sự vô thường này khiến cho chúng không còn giá trị, không còn cần thiết, và rồi chúng đến và đi tùy thích: không có một “bản ngã” đang điều hành sự việc, mà chỉ là sự chuyển biến tự nhiên thuận theo nhân quả. Tất cả mọi việc trên thế gian này, mọi sự ràng buộc và dính mắc sẽ giảm thiểu dần dần. Đó là bởi bạn nhìn thấy bản chất thật của thế gian. Chúng ta gọi đây là sự phát sinh trí huệ.


Sự phát sinh trí huệ


Trí huệ là nhìn thấy chân lý về những tiến trình khác nhau của thân và tâm. Khi chúng ta sử dụng cái tâm an định và được huấn luyện của mình để quán chiếu ngũ uẩn, chúng ta sẽ nhận ra rằng cả thân và tâm đều vô thường, bất toại nguyện, và vô ngã. Khi nhìn thấy mọi việc với trí huệ, chúng ta không còn dính mắc hay bám víu nữa. Bất cứ những gì đến với chúng ta, chúng ta chấp nhận chúng một cách tỉnh thức, chúng ta không buồn phiền và đau khổ - bởi vì chúng ta nhận thấy rõ bản chất vô thường của vạn vật. Khi chúng ta bệnh hoạn hay đau đớn, chúng ta vẫn bình thản vì tâm đã được huấn luyện tốt. Tâm như thế sẽ là nơi nương náu thật sự của chúng ta.

Sự hiểu biết này chính là trí huệ. Trí huệ hiểu biết thực chất của sự việc khi chúng phát sinh. Trí huệ phát sinh từ chánh niệm và thiền định. Thiền định đặt nền tảng trên giới luật. Cả ba điều này - giới, định, huệ - tương quan mật thiết đến độ hành giả không thể chỉ tập trung vào một khía cạnh để được giải thoát. Tiến trình tu hành xảy ra như thế này. Trước hết, chúng ta tập cho đầu óc chú ý vào hơi thở. Đây là sự phát sinh đức hạnh. Khi sự chánh niệm về hơi thở được thực hành cho đến khi tâm tĩnh lặng thì định lực phát sinh. Rồi từ sự quán xét mà chúng ta nhận thấy rằng hơi thở là vô thường, bất toại nguyện, và vô ngã. Sự xả bỏ sẽ theo sau đó và đây là sự phát sinh của trí huệ. Cho nên, thực tập chánh niệm về hơi thở có thể được xem là nền tảng cho sự phát triển giới, định, huệ. Ba pháp tu này phụ thuộc chặt chẽ với nhau như thế đó.

Khi cả ba pháp giới, định, huệ đều được phát triển, chúng ta gọi sự tu hành này là Bát Chánh Đạo‛¹’, là con đường duy nhất để thoát khổ. Bát Chánh Đạo là pháp môn vô thượng bởi vì, nếu được thực hành đúng đắn, nó sẽ dẫn đến Niết bàn, đến sự bình an rốt ráo.


Lợi ích của sự tu hành


Khi chúng ta hành thiền như cách trên, thành quả của sự tu hành sẽ có ba giai đoạn như sau:
Thứ nhất, đối với những hành giả mà sự phát tâm bắt nguồn từ đức tin, thì sự tin tưởng của họ vào Phật, Pháp, Tăng sẽ tăng trưởng dần dần. Đức tin này sẽ củng cố sự tu hành của họ. Họ cũng sẽ hiểu biết về tính chất nhân quả của mọi việc: rằng hành động thiện lành mang lại kết quả thiện lành và hành động bất thiện sẽ mang lại hậu quả bất thiện. Những người này sẽ đạt được sự bình an và hạnh phúc lớn lao.

Thứ hai, những người đạt các thành quả của bậc Thanh văn, Tư đà hàm, hay A na hàm phát triển đức tin không thể lay chuyển vào ba ngôi Phật, Pháp, Tăng. Họ rất an lạc và đều hướng đến mục tiêu là cảnh giới Niết bàn.

Thứ ba, những người đã đạt đến đẳng cấp của A la hán hay những chúng sinh toàn mỹ, đã đoạn diệt tất cả phiền não . Họ là những vị Phật, đã giải thoát rốt ráo và hoàn tất hành trình tâm linh.
Chúng ta thật may mắn là đã được sinh làm người và được nghe chánh pháp. Đây là một cơ hội mà cả triệu triệu chúng sinh khác không có được. Cho nên, đừng xem thường nó. Hãy nhanh chóng phát triển sự toàn thiện và đi theo con đường tu hành đúng đắn để đạt đến những đẳng cấp cao nhất. Đừng lãng phí thời gian. Đừng sống một cuộc đời không có mục đích. Hãy cố đạt cho được sự chứng ngộ chân lý ngay trong ngày hôm nay, nếu có thể được.


PHẦN I

GIỚI LUẬT

Đức Hạnh và Thế Giới của Lục Căn


-ooOoo-

Chương 3 

Sống trong đạo pháp


Giá trị của Phật Pháp không 
nằm trong sách vở. Sách vở 
chỉ là ngoại binh của Phật Pháp.
Chúng không phải là sự chứng ngộ 
Phật Pháp mà một người đạt được 
qua sự tu hành.


Vua Thái Lan thực hiện xức dầu trong lễ mai táng Thiền sư Ajahn Chah 
   
Nhiều người vẫn không hiểu cốt tủy của sự hành thiền. Họ nghĩ rằng đi kinh hành, ngồi thiền, và nghe pháp là tu hành. Điều đó cũng đúng, nhưng đây chỉ là  hình thức bên ngoài của sự tu hành. Sự tu hành thật xảy ra khi tâm tiếp xúc với các đối tượng của sáu giác quan. Đó là khi chúng ta thật sự tu hành, là khi mà các giác quan tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Khi có ai nói điều gì chúng ta không thích, chúng ta tức giận; nếu họ nói điều gì chúng ta thích, chúng ta cảm thấy khoan khoái. Đây chính là nơi để tu tập. Chúng ta tu tập với những việc này như thế nào? Đây là điều quan trọng. Nếu chúng ta cứ chạy quanh quẩn, đuổi theo hạnh phúc và chạy trốn khổ đau, chúng ta có thể tu hành cho đến ngày chúng ta lìa đời mà vẫn không biết gì về Phật Pháp cả. Khi sự khoái lạc và đau khổ phát sinh, chúng ta phải biết sử dụng Phật Pháp để thoát khỏi chúng. Đây là cốt tủy của sự tu hành.
   
Thường thì khi người ta gặp điều gì không hài lòng, họ không tiếp nhận nó. Khi bị chỉ trích, chẳng hạn, họ có thể sẽ đáp trả với câu, ''Đừng làm phiền tôi! Tại sao lại đổ lỗi cho tôi?” Đây là cách ứng xử của một người đóng chặt chính họ lại. Thế nhưng lúc này chính là lúc để tu tập. Khi người ta chỉ trích chúng ta, chúng ta nên lắng nghe. Họ có nói đúng sự thật không? Chúng ta nên cởi mở và xem xét những gì họ nói. Có lẽ có một điều gì đó đáng trách bên trong chúng ta. Họ có thể đúng, nhưng chúng ta đã vội vàng thủ thế. Khi người ta chỉ ra khuyết điểm của chúng ta, chúng ta nên cảm thấy biết ơn và cố gắng cải thiện chính mình. Đây là cách tu hành của kẻ trí.
   
Nơi nào có sự rối loạn, Nơi đó sự bình an có thể phát sinh. Khi sự rối loạn được hiểu biết thấu đáo, những gì còn lại là sự bình an. Có người không thể chấp nhận bị phê phán, bởi họ quá kiêu hãnh. Thay vì  vậy, họ cãi lại. Đây là điều thường xảy ra khi người lớn đối phó với trẻ con. Thật ra, đôi lúc trẻ con có thể nói đúng, nhưng nếu bạn là cha mẹ, chẳng hạn, bạn không thể chịu thua chúng. Nếu bạn là thầy giáo, học trò của bạn đôi lúc nói với bạn một điều gì đó mà bạn không biết. Nhưng bởi vì bạn là thầy, nên bạn không thể nghe lời chúng. Đây không phải là Chánh Tư Duy.
   
Đức Xá Lợi Phất, một trong các đệ tử của Đức Phật, là một người rất khôn ngoan. Có một lần, khi Đức Phật đang thuyết pháp, ngài quay sang  Xá Lợi Phất và hỏi, '' Xá Lợi Phất, ông có tin điều này không?”  Xá Lợi Phất trả lời, ''Không, tôi vẫn chưa tin được”. Đức Phật khên ngợi ông, ''Hay lắm Xá Lợi Phất, ông là người có trí huệ. Kẻ trí không tin ngay, họ lắng nghe với một đầu óc cởi mở và rồi xem xét chân lý của sự việc trước khi quyết định tiếp nhận hay bác bỏ nó”.
   
Ở đây Đức Phật đã nêu một tấm gương tốt cho các vị thầy. Điều mà Xá Lợi Phất nói là sự thật. Ông chỉ trình bày cảm xúc thật sự của mình. Thế nhưng,  có nhiều người khôngdám bày tỏ sự nghi ngờ của họ đối với một điều gì đó vì sợ rằng làm thế là nghi ngờ sự hiểu biết của người thầy. Nhưng Đức Phật không cảm thấy bị xúc phạm. Ngài nói rằng bạn không cần cảm thấy xấu hổ về những việc không xấu hay không có ác ý. Không có gì xấu khi nói rằng mình không tin một điều gì đó, nếu mình thật sự không tin. Hành động của Đức Phật ở đây là một tấm gương tốt cho một người đang dạy dỗ những người khác. Đôi lúc bạn có thể học hỏi ngay cả từ những đứa trẻ. Đừng dính mắc một cách mù quáng vào địa vị hay uy tín của mình.
     
Dầu bạn đang đứng, đang ngồi, hay đang đi, bạn đều có thể xem xét những việc xung quanh bạn. Xem xét một cách tự nhiên. Hãy quán xét mọi thứ: cảnh sắc, âm thanh, mùi vị, cảm xúc, hay ý niệm. Kẻ trí quán xét tất cả. Trên đường tu hành, chúng ta sẽ đạt đến một điểm nơi không còn điều gì có thể đè nặng tâm trí chúng ta.
     
Nếu chúng ta vẫn chưa nhận biết những cái thích và không thích của chúng ta khi chúng phát sinh, chúng ta sẽ vẫn còn lo âu. Nếu chúng ta biết sự thật về những thứ này, chúng ta sẽ suy ngẫm như vầy, ''Ồ, cái cảm giác ưa thích này chẳng là gì cả. Nó chỉ là một cảm xúc đến rồi đi mà thôi. Cũng thế ấy, sự không thích cũng chỉ là một cảm xúc đến rồi đi. Tại sao chúng ta phải đặt vấn đề với chúng?” Nếu chúng ta nghĩ rằng hạnh phúc và đau khổ là những tài sản cá nhân, thì chúng ta sẽ bị phiền phức. Và những thứ này cứ nối tiếp nhau trong một chuỗi vô tận. Đây là   những gì xảy ra với phần lớn chúng ta.
     
Nhưng thời nay, các vị thầy không thường nói về tâm khi họ thuyết giảng. Họ không nói chân lý. Nhưng con người nên lắng nghe chân lý. Một vị thầy chân chánh không chỉ nói từ trí nhớ, mà nói chân lý. Một tu sĩ chân chánh không nói chuyện như thế. Ông ta nói chân lý – thực chất của sự việc.
Nếu bạn hiểu biết Phật Pháp, bạn nên tu hành y theo đó. Bạn không cần phải trở thành một người xuất gia, mặc dầu đời sống xuất gia là một đời sống lý tưởng, thích hợp nhất cho sự tu hành. Để thật sự tu hành, bạn cần phải buông bỏ sự rối ren của thế gian, buông bỏ gia đình và tài sản, và đi vào rừng. Đó là cách tốt nhất để tu hành. Nhưng nếu chúng ta đã có một gia đình và trách nhiệm, chúng ta làm sao để tu hành? Có người nói rằng người tại gia khó có thể tu hành. Nhưng bạn nghĩ xem, nhóm người nào đông đảo hơn, tại gia hay xuất gia? Có quá nhiều người tại gia hơn là người xuất gia. Rồi bây giờ, nếu chỉ có người xuất gia tu hành thôi, thì sẽ có rất nhiều sự lầm lẫn hay vô minh trong xã hội. Cho nên, xuất gia không phải là một giải pháp! Là một tăng sỹ mà không tu hành sẽ chẳng có ý nghĩa gì. Nếu bạn thật sự hiểu biết Phật Pháp, thì bất kể bạn đang làm nghề gì hay giữ chức vụ gì trong xã hội, bạn vẫn có thể tu hành trong từng giây phút.
     
Cho rằng bạn không thể tu hành khi sống tại gia là không hiểu Đạo. Tại sao người ta có thể tìm được sự khích lệ để làm những việc khác? Nếu họ cảm thấy mình thiếu thốn một điều gì, họ cố gắng đạt cho được điều đó. Con người có thể làm bất cứ điều gì nếu họ có đủ lòng ham muốn. Có người nói, ''Tôi không có thời gian để tu hành”. Tôi nói, ''Bạn có thời giờ để thở không vậy?” Sự tu hành đâu phải là điều làm cho bạn kiệt sức. Bạn chỉ việc quan sát những cảm xúc phát sinh trong đầu. Điều gì xảy ra khi đầu óc tiếp nhận hình sắc, âm thanh, mùi vị v.v... từ các giác quan? Nếu chúng ta thích điều đó, chúng ta cảm thấy khoan khoái, nếu chúng ta không thích điều đó, chúng ta cảm thấy khó chịu. Chỉ vậy thôi.
     
Cho nên, bạn đi đâu để tìm kiếm hạnh phúc trong thế giới này? Đâu phải mọi người đều sẽ nói với bạn những điều dễ nghe suốt cuộc đời của bạn? Có chuyện đó không? Nếu không, thì bạn đi đâu bây giờ? Thế giới là như vậy. Chúng ta phải hiểu rõ bản chất của thế giới này. Đức Phật sống trong thế giới này. Ngài đã kinh nghiệm đời sống gia đình, nhưng Ngài nhìn thấy sự giới hạn của nó và buông bỏ nó. Vậy thì các bạn, những người tại gia, làm sao để tu hành? Nếu bạn muốn tu hành, bạn phải đi theo chánh đạo. Nếu bạn kiên trì tu tập, bạn sẽ nhìn thấy sự giới hạn của thế giới này và sẽ có thể buông bỏ.
     
Những người nghiện rượu đôi lúc nói, ''Tôi không làm sao bỏ rượu được”. Tại sao họ không thể bỏ rượu? Bởi vì họ chưa nhận thấy cái giá của nó. Nếu bạn không nhìn thấy cái giá của một điều gì đó, bạn không thể nhìn thấy sự lợi ích của việc buông bỏ nó. Sự tu hành của bạn sẽ không có kết quả. Bạn chỉ tu hành cho vui mà thôi. Nhưng nếu bạn thấy rõ hậu quả và lợi ích của một điều gì, bạn sẽ không đợi người khác khuyên bảo bạn. Hãy nghe câu chuyện sau về một thuyền chài vừa tìm thấy một thứ gì đó trong cái bẫy cá của ông. Ông biết có cái gì ở đó. Ông nghe thấy một thứ gì đang nhảy lạch bạch bên trong. Cho rằng đó là một con cá, ông thò tay vào lưới thì mới biết đó là một con vật khác. Ông chưa nhìn thấy nó, nên ông lưỡng lự. Có thể nó là một con lươn, nhưng biết đâu, nó cũng có thể là một con rắn. Nếu ông ném nó đi, ông có lẽ sẽ hối tiếc, bởi nó có thể là một con lươn. Mặt khác, nếu ông nắm lấy nó mà nó là một con rắn, thì ông có thể bị nó cắn. Ông nghi ngờ, nhưng vì quá ham muốn, ông cứ giữ chặt cái bẫy cá. Thế nhưng, khi ông vừa lôi nó ra và nhìn thấy bộ da vằn vện của nó, ông quăng nó ngay lập tức. Ông không cần đợi ai kêu lên, ''Con rắn, thả nó đi!” Nhìn thấy con rắn là ông biết phải làm gì ngay mà không cần đợi ai bảo. Tại sao? Bởi vì ông nhìn thấy sự nguy hiểm – rắn có thể cắn! Cùng thế ấy, nếu chúng ta tu hành cho đến khi chúng ta thấy rõ bản chất của sự việc, chúng ta sẽ không dính dáng với những điều có hại.
     
Nhưng người ta ít khi thực hành điều này. Họ không suy nghĩ về sự già cả, bệng hoạn và chết chóc. Cho nên họ không bao giờ cảm thấy muốn tu hành. Họ đi nghe thuyết pháp nhưng họ không thực sự lắng nghe. Đôi lúc tôi được mời đi thuyết giảng cho những đoàn thể quan trọng, nhưng họ chỉ khiến tôi cảm thấy khó chịu. Khi nhìn những người có mặt ở đó, tôi có thể nhận thấy rằng họ không đến để nghe pháp. Có người còn nồng nặc mùi rượu, có người đang hút thuốc, có người thì chuyện gẫu. Họ không giống những người có niềm tin vào Phật Pháp chút nào. Giảng pháp ở những nơi như thế không có ích lợi nhiều. Những người không chú ý lắng nghe sẽ nghĩ, ''Khi nào ông ấy mới ngừng nói đây? 'Không thể làm điều này, Không được làm điều kia...' ” và đầu óc của họ nghĩ ngợi lung tung.
     
Có lúc họ còn mời tôi thuyết giảng cho có hình thức, ''Xin ngài cho chúng tôi một bài pháp ngắn”. Họ không muốn tôi nói nhiều – sợ sẽ rầy rà cho họ! Khi tôi vừa nghe có ai nói kiểu này, tôi biết họ đang nghĩ gì. Những người này không thích nghe pháp. Giáo pháp quấy rầy họ. Nếu tôi chỉ nói một bài pháp ngắn, họ sẽ chẳng hiểu gì cả. Nếu bạn chỉ ăn một chút, bạn có no được không?
     
Có lúc tôi đang nói chuyện để khơi mào cho một đề tài nào đó, thì một gã say rượu la lên, ''Ê, tránh đường, tránh đường, Đại Đức sắp ra đến rồi!” - hắn muốn đuổi tôi đi! Nếu tôi gặp những loại người này, Tôi phải suy ngẫm rất nhiều, và tôi hiểu rõ thêm về bản chất của con người. Nó giống như một người có một bình nước đầy, mà vẫn xin thêm. Đâu còn chỗ để chứa nữa. Châm thêm nước vào bình đó chỉ khiến nước chảy tràn một cách phí phạm. Dạy dỗ những người như vậy chỉ lãng phí thời gian và sức lực, bởi vì đầu óc họ đã đầy ắp rác rưởi. Tôi không thể cố gắng cho khi không ai cố gắng nhận. Nếu bình nước của họ còn có chỗ trống, người cho và người nhận mới được lợi ích.
     
Vào thời nay, việc thuyết pháp thường là như vậy, và ngày càng tệ hại hơn. Người ta không tìm kiếm chân lý. Họ nghiên cứu giáo lý chỉ để tìm thấy những kiến thức cần thiết cho việc sinh nhai, phụng dưỡng gia đình, và chăm sóc cho bản thân họ. Họ không thật sự nghiên cứu Phật Pháp. Tăng sĩ thời nay có nhiều kiến thức hơn những thế hệ trước rất nhiều. Họ có tất cả những thứ họ cần. Họ có đủ thứ tiện nghi. Nhưng họ cũng đau khổ và hoang mang nhiều hơn. Tại sao vậy? Bởi vì họ chỉ tìm tòi những thứ kiến thức mà họ có thể dùng để kiếm sống.
     
Ngay cả các tăng sĩ cũng àm thế. Đôi lúc tôi nghe họ nói, ''Tôi đâu phải xuất gia để tu hành! Tôi ở đây là để nghiên cứu Phật Pháp”. Đây là lời của những ngưpời không biết tu hành là gì. Họ đang ở ngõ cụt. Khi những tăng sĩ này giảng dạy, Họ chỉ nói từ trí nhớ. Họ có thể giảng dạy, nhưng tâm của họ thì ở những nơi khác. Sự giảng dạy như thế không phải là Chánh pháp.
     
Thế giới là như vậy đó. Nếu bạn muốn sống bình dị, an ổn để tu hành, họ nói bạn là kỳ quặc và lập dị. Họ nói rằng bạn cản trở sự phát triển của xã hội. Họ còn hù dọa, khiến cho bạn sợ hãi. Bạn có thể sẽ tin những gì họ nói và quay lại với lối sống thế gian, để rồi ngày càng chìm đắm cho đến khi bạn không thể vụt lên nổi. Có người nói, ''Tôi không thể thoát ra được. Tôi đã lún qúa sâu rồi”. Xã hội thường là như vậy đó. Ít ai hiểu giá trị của Phật Pháp.
     
Giá trị của Phật Pháp không nằm trong sách vở. Sách vở chỉ là ngoại hình của Phật Pháp. Chúng không phải là sự chứng ngộ Phật Pháp mà một người kinh nghiệm đạt được qua sự tu hành.

Nếu bạn chứng ngộ, bạn nhận biết tâm của mình. Bạn nhận thấy chân lý ở đó. Khi chân lý trở nên rõ ràng, nó phá tan mọi ảo giác.
   
Giáo lý của Đức Phật là một chân lý bất di bất dịch. Đức Phật chứng ngộ chân lý này 2,500 năm trước, và nó vẫn là chân lý cho đến ngày nay. Giáo lý này không thể thêm hay bớt. Đức Phật nói, ''Những gì Như Lai nói ra không được cắt bỏ, và những gì Như Lai không nói thì không được thêm vào”. Ngài niêm phong giáo lý của ngài. Tại sao Đức Phật làm thế? Bởi vì sự giảng dạy này là lời nói của một người không có phiền não. Dầu cho thế giới thay đổi, sự giảng dạy này sẽ không thay đổi. Nếu điều gì đó là sai, nói rằng nó đúng có làm cho nó ít sai hơn không? Nếu điều gì đó là đúng mà người ta nói rằng nó là không đúng, thì điều đó có thay đổi gì không? Nhiều thế hệ đã đi qua, nhưng sự giảng dạy này vễn không thay đổi, bởi vì nó là chân lý.
     
Vậy thì ai là người tạo ra chân lý này? Chính chân lý tự nó tạo ra chân lý! Có phải Đức Phật đã sáng tạo ra nó không? Không, không phải ngài. Đức Phật chỉ khám phá ra chân lý, bản chất của sự việc, và rồi ngài công bố nó. Chân lý luôn đúng, dầu Đức Phật có xuất hiện nơi thế gian hay không. Đức Phật chỉ ''thừa nhận” Phật Pháp mà thôi. Phật Pháp luôn có ở đó. Chỉ là trước kia, chưa ai tìm thất nó. Đức Phật là người đã tìm kiếm và tìm thấy cái chân lý bất tử mà chúng ta gọi là Phật Pháp và rồi truyền đạt nó. Ngài không sáng tạo ra nó.
     
Tại một thời điểm nào đó chân lý được giảng giải và sự tu hành theo chánh pháp bắt đầu. Theo thời gian, sự tu hành suy đồicho đến khi sự giảng dạy này phai mờ hoàn toàn. Sự hỗn loạn lại thống trị thế gian. Sau một thời gian, chánh pháp lại được khám phá ra và hưng thịnh trở lại. Chân lý lại được thiết lập. Và cứ như vậy – hưng thịnh và suy vong, nhưng chân lý thật sự không đi đâu cả. Khi các vị Phật qua đời, chánh pháp không biến mất theo họ.
     
Thế gian xoay vần mãi. Nó giống như một cây xoài. Khi cây lớn lên, nó đơm hoa, kết trái, rồi trái chín. Những trái xoài hư thối rơi xuống và hạt xoài trở lại đất để trở thành một cây xoài mới. Thế gian cũng vậy. Nó chẳng đi đâu xa, mà chỉ xoay vần chung quanh những sự việc cũ.
     
Đời sống của chúng ta cũng vậy. Hôm nay chúng ta cũng chỉ làm những việc mà chúng ta đã từng làm. Người ta suy nghĩ quá nhiều. Có quá nhiều việc lôi cuốn sự chú ý của họ, nhưng không thứ gì đi tới đâu cả. Có những môn khoa học như toán học, vật lý học, tâm lý học, v.v... Bạn có thể nghiên cứu bất kỳ môn học nào, nhưng bạn chỉ có thể thấu hiểu nó với sự chứng ngộ chân lý mà thôi.
     
Hãy hình dung một cái xe bò. Khi con bò đi, chiếc xe để lại dấu xe phía sau nó. Bánh xe có thể không lớn lắm, nhưng dấu xe có thể sẽ rất dài. Nhìn chiếc xe bò khi nó đứng yên, bạn thấy nó chỉ có bấy nhiêu thôi, nhưng một khi con bò bắt đầu chuyển động, bạn thấy dấu xe kéo dài phía sau bạn. Chừng nào con bò còn bước đi, bánh xe sẽ còn quay, nhưng một ngày nào đó, con bò sẽ mệt mỏi và không thể kéo xe nữa. Khi con bò rời bỏ chiếc xe, bánh xe sẽ không quay nữa. Sau một thời gian, chiếc xe hư hỏng, các bộ phận của nó trở về tứ đại – đất, nước, gió và lửa.
     
Khi bạn tìm kiếm sự bình an trong thế gian, bánh xe của chiếc xe bò của bạn quay liên tục và dấu xe kéo dài vô tận phía sau bạn. Chừng nào bạn còn chạy theo thế gian, chiếc xe sẽ không ngừng nghỉ. Nhưng nếu bạn chỉ việc dừng lại, chiếc xe sẽ dừng lại, bánh xe sẽ không quay nữa. Ác nghiệp phát sinh như thế đó. Chừng nào bạn còn đi theo con đường cũ, nghiệp quả sẽ sinh khởi mãi. Nếu bạn dừng lại, nó sẽ ngừng sinh khởi. Đây là sự tu hành của chúng ta. 


Chương 4

Tâm thiện lành


Buông bỏ mọi điều ác, lớn 
và nhỏ, từ thân, khẩu, ý.
Đây là giáo lý của Phật


Thời nay, người ta đi khắp nơi để cầu phước báu. Và họ thường ghé ngang qua tu viện Wat Pah Pong này. Nếu họ không ghé ngang trên đường đi thì họ ghé ngang trên đường trở về. Có người vội vã đến độ tôi không có cơ hội để nhìn hay nói chuyện với họ. Đa số mọi người tìm kiếm phước báu. Tôi không thấy nhiều người muốn tìm cách sửa đổi lối sống sai trái của họ. Họ lo kiếm phước báu đến độ họ không biết họ sẽ để nó ở đâu. Nó cũng giống như việc nhuộm một miếng vải bẩn, chưa giặt.

Các tăng sĩ giảng dạy thẳng thắn, nhưng không bao nhiêu người thực hành. Phần lớn là bởi vì họ không hiểu. Nếu họ hiểu thì dễ hơn nhiều. Giả sử có một cái lỗ, và có thứ gì ở dưới đáy. Nếu có người thò tay vào cái lỗ mà không thể chạm đến đáy, họ nói rằng cái lỗ đó quá sâu. Hàng trăm, hàng ngàn người có thể thò tay xuống cái lỗ đó, và đều nói rằng cái lỗ quá sâu. Không ai nói rằng cánh tay của họ quá ngắn cả!

Sớm muộn rồi, những người tìm kiếm phước báu này sẽ phải bắt đầu tìm cách xa rời những việc làm sai lầm của họ. Nhưng không bao nhiêu người muốn làm thế. Giáo lý của Đức Phật quá ngắn gọn, thế mà đa số người cứ lờ đi, giống như cách họ ghé qua Wat Pah Pong. Đối với đa số người, Phật Pháp là như vậy đó, là chỗ để đỗ lại một chút.

Chỉ có vài hàng chữ thôi, không có gì phức tạp cả. Thứ nhất là, tránh làm những việc ác. Đó là giáo lý của Phật. Đây là cốt tủy của Phật Pháp. Nhưng người ta cứ lờ đi, bởi họ không muốn điều này. Buông bỏ mọi điều ác, lớn và nhỏ, từ thân, khẩu, ý - đây là giáo lý của Phật.

Nếu muốn nhuộm một mảnh vải, chúng ta cần giặt nó sạch trước. Nhưng nhiều người không làm như vậy. Họ không xem xét miếng vải trước mà chỉ việc nhúng nó ngay vào thau thuốc nhuộm. Nếu miếng vải dơ bẩn, nhuộm màu chỉ khiến cho nó xấu xí hơn. Thử nghĩ đi. Nhuộm một cái giẻ cũ bẩn thỉu có làm cho nó đẹp hơn không?

Bạn thấy không? Đây là cách mà Phật Pháp được giảng dạy, nhưng đa số con người ta cứ lờ đi. Họ muốn làm việc thiện, nhưng không muốn buông bỏ thói quen xấu của họ. Cũng giống như nói là cái lỗ quá - sâu trong khi đó là bởi vì cánh tay quá ngắn. Chúng ta phải quay lại với chính mình. Với sự giảng dạy này, bạn phải bước lùi lại và nhìn vào chính mình.

Đôi lúc người kiếm phước báu đi đầy cả một chuyến xe buýt. Đôi lúc họ còn cãi vã nhau trên xe, hay uống rượu say mềm. Nếu bạn hỏi họ đi đâu, thì họ bảo là họ đi kiếm phước báu. Họ muốn phước báu nhưng họ không buông bỏ điều ác. Họ sẽ chẳng bao giờ tìm được phước báu bằng cách đó.

Con người là như thế. Bạn phải nhìn vào chính mình. Nhìn thật kỹ. Đức Phật dạy về sự chánh niệm và sự nhận biết chính mình trong mọi tình huống. Điều ác phát sinh từ thân, khẩu, ý. Nguồn gốc của mọi điều thiện và điều ác nằm trong hành động, lời nói, và tư tưởng. Đây là nơi bạn cần phải nhìn, ngay nơi đây. Nhìn xem hành vi của bạn có sai trái hay không.

Người ta không thật sự nhìn vào những thứ này. Giống như một người đang rửa chén với vẻ mặt cau có giận dữ. Bà ta quá chú tâm vào việc chùi sạch chén bát, mà không nhận biết sự dơ bẩn trong tâm của chính mình! Bà ta đang nhìn quá xa, không phải sao? Người ta tập trung hết sức vào việc chùi rửa chén bát đến độ họ cho phép tâm của mình dơ bẩn. Như vậy là không tốt. Họ quên mất chính mình.

Bởi vì không thấy chính họ, con người có thể làm đủ thứ điều xấu. Khi người ta dự định làm một điều gì xấu, họ nhìn quanh xem có ai thấy họ không. Mẹ mình có thấy không nhỉ? Còn chồng mình? Con mình? Vợ mình? Họ đang sỉ nhục chính mình: Họ nghĩ rằng không ai nhìn thấy, nên họ nhanh chóng hoàn tất ý đồ của họ trước khi có người nhìn thấy. Nhưng còn chính họ thì sao? Họ không phải là một người nào đó sao?

Bạn thấy không? Bởi vì họ quên chính mình như thế, nên con người không bao giờ biết được điều gì là thật sự quan trọng. Họ không biết được Chánh Pháp. Nếu bạn nhìn vào chính mình, bạn sẽ thấy chính mình. Bất cứ khi nào bạn sắp làm một điều ác, nếu bạn nhìn thấy chính mình đúng lúc, bạn có thể ngừng lại. Nếu bạn muốn làm một điều thiện, hãy nhìn vào chính mình. Nếu bạn biết cách nhìn vào chính mình, bạn sẽ biết phận biệt giữa điều thiện và điều ác, cái lợi và cái hại, đức hạnh và nết xấu.

Nếu tôi không nói về những điều này, bạn sẽ không biết về chúng. Tâm bạn sẽ chứa đầy lòng tham và ảo tưởng, nhưng bạn vẫn không biết. Bạn sẽ không biết điều gì cả nếu bạn cứ nhìn ở bên ngoài. Đó là vấn đề với những người không nhìn vào chính mình. Nhìn vào bên trong, bạn sẽ thấy điều thiện và điều ác. Nhìn thấy sự thiện lành, chúng ta có thể nhớ mà làm theo như vậy.

Buông bỏ điều ác, thực hành điều thiện - đây là cốt tủy của Phật Pháp. Thân, khẩu, ý không làm bất cứ điều ác nào. Đó là Chánh Pháp, là sự tu hành đúng đắn, là giáo lý của Đức Phật. Rồi miếng vải của chúng ta sẽ sạch sẽ.

Và rồi chúng ta sẽ có được tất cả sự thiện lành và đức hạnh. Nếu tâm đã thiện lành và đức hạnh, chúng ta không phải đáp xe buýt đi khắp nơi để tìm kiếm phước báu. Ngay cả ngồi ở nhà, chúng ta cũng có thể đạt được phước báu. Nhưng đa số người cứ đi khắp nơi để tìm kiếm phước báu mà không buông bỏ thói ác của họ. Họ trở về nhà tay không, và rồi, họ lại chùi rửa chén bát với vẻ cau có, bực bội. Nhìn vào bên trong là điều mà người ta không muốn làm, cho nên họ cách xa phước báu rất nhiều.

Dầu chúng ta có biết tất cả những điều này, nhưng nếu chúng ta không thật sự biết nó từ bên trong, Phật Pháp Không đi vào tâm của chúng ta. Nếu tâm chúng ta thiện lành và đức hạnh, nó sẽ hạnh phúc. Có một nụ cười trong tâm chúng ta. Nhưng phần lớn chúng ta không có thời giờ để mỉm cười.

Chúng ta chỉ có thể miễn cưỡng mỉm cười khi cuộc đời trôi chảy. Đối với đa số người, hạnh phúc là khi sự việc diễn tiến theo cách họ muốn, là khi mọi người trên thế giới chỉ nói những điều tốt đẹp với họ. Nếu đây là điều bạn muốn, làm sao bạn có thể sống hạnh phúc? Làm sao chúng ta có thể khiến cho người khác chỉ nói những gì chúng ta thích nghe mỗi ngày? Có thể nào không? Ngay cả con cái của bạn, chúng có bao giờ nói điều gì làm Phật lòng bạn không? Bạn có bao giờ làm cha mẹ mình nổi giận không? Không chỉ người khác, mà ngay chính đầu óc của chúng ta có thể khiến cho chúng ta bực tức. Đôi lúc chúng ta nghĩ đến những chuyện buồn. Bạn có thể làm gì được chứ? Bạn có thể đang đi và bỗng nhiên vấp té. Ai da! Đau quá! Vấn đề là gì thế? Ai làm ai trượt té vậy? Bạn đổ lỗi cho ai đây? Nó là lỗi của bạn. Ngay cả đầu óc của chúng ta cũng có thể làm phiền chúng ta.

Đôi lúc chúng ta làm những việc mà ngay cả chúng ta cũng không thích. Nhiều lắm là bạn la lên, “Đồ chó!" Đâu có ai khác để trách mắng.

Chúng ta phải dựa vào Phật Pháp để tìm hạnh phúc. Bất kể đó là gì, bất kể điều gì đó là đúng hay sai, đừng bám chặt một cách mù quáng vào đó. Chỉ việc nhận biết nó và rồi buông bỏ nó. Khi tâm thanh thản, bạn có thể mỉm cười. Giây phút mà bạn bực tức một điều gì, tâm rối ren. Và rồi không còn gì là tốt nữa cả.

Một khi dứt sạch các phiền não, tâm sẽ không còn lo âu - chỉ có sự bình an, thiện lành, và đức hạnh. Khi tâm chiếu diệu và không còn điều ác, nó thanh thản. Tâm tĩnh lặng và bình an là thành quả lớn lao nhất của con người.

Trong Phật Pháp, phước báu là buông bỏ điều ác. Khi không còn điều ác, tâm không còn chỗ cho bất kỳ sự lo lắng nào. Khi không còn lo lắng, tâm sẽ tĩnh lặng. Tâm tĩnh lặng là tâm thanh tịnh, không còn một tư tưởng oán giận nào nữa.

Làm sao để cho tâm trong sáng? Chỉ bằng cách nhận biết nó. Chẳng hạn, bạn có thể nghĩ, “Hôm nay tôi cảm thấy rất bực bội, điều gì cũng làm cho tôi khó chịu, ngay cả mấy cái đĩa trong tủ chén bát". Có thể bạn cảm thấy như muốn đập chúng bể nát. Bất cứ thứ gì trước mắt bạn điều khiến bạn bực bội: gà, vịt, chó, mèo - bạn ghét tất cả. Bất cứ điều gì chồng bạn nói đều khiến bạn bực tức. Ngay cả khi nhìn vào tâm chính mình, bạn cũng thấy bất mãn. Bạn phải làm gì trong trường hợp như thế? Cảm giác đau khổ từ đâu đến vậy? Điều này được gọi là “không có phước báu”. Hiện nay tại Thái Lan, người ta tin rằng có một người chết, phước báu của họ mất theo. Nhưng sự thật thì không phải vậy. Có rất nhiều người còn sống mà đã hết phước báu rồi.

Đi trên những chuyến xe kiếm phước báu này cũng giống như xây cất một căn nhà xinh đẹp mà không chuẩn bị nền móng cho tốt trước. Không bao lâu, căn nhà sụp đổ. Bạn phải làm lại từ đầu, với một phương pháp khác. Bạn phải nhìn vào chính mình, nhìn vào tật hư, thói xấu nơi thân, khẩu, ý của bạn. Còn nơi nào để cho bạn tu hành nữa chứ? Con người đi lạc hướng. Họ muốn tu hành chánh pháp ở một nơi thật bình an, trong rừng Wat Pah Pong. Nhưng Wat Pah Pong có bình an không?

Không, không thật sự bình an đâu. Nơi thật sự bình an là trong căn nhà của chính bạn.

Nếu bạn có trí huệ, ở bất cứ nơi nào, bạn cũng đều cảm thấy tự tại. Thế giới vô sự cả. Cây cối trong đều vô sự: cây cao, cây thấp, cây rỗng ruột, đủ thứ. Chúng chỉ là vậy thôi. Nhưng chúng ta, không nhận biết bản chất thật của chúng, mới có ý kiến này nọ: Cây này quá thấp! Cây này rỗng ruột! Những cây đó chỉ giản dị là cây cối thôi, chúng tốt hơn chúng ta.

Hãy để cây cối dạy dỗ cho bạn. Bạn học được điều gì từ chúng không? Bạn nên cố học ít nhất một điều từ chúng. Có quá nhiều cây, tất cả đều có một điều gì đó để dạy dỗ bạn. Phật pháp hiện hữu ở khắp mọi nơi, trong khắp cả thiên nhiên. Bạn nên biết điều này. Đừng ở đó mà than phiền là cái lỗ quá sâu. Hãy nhìn lại cánh tay của bạn đi! Nếu bạn nhìn thấy điều này, bạn sẽ hạnh phúc.

Nếu bạn kiếm được phước báu hay giữ được giới hạnh, hãy để nó trong tâm bạn. Đó là nơi tốt nhất để bảo tồn nó. Kiếm phước báu theo cách bạn làm hôm nay cũng được, nhưng đó không phải là cách tốt nhất. Đóng góp vào quỹ xây cất tu viện cũng có phước báu, nhưng đó cũng không phải là điều tốt nhất. Làm cho tâm của bạn thiện lành là điều tốt nhất. Bằng cách đó, bạn sẽ tìm thấy sự thiện lành bất kỳ bạn đến đây hay ở nhà. Hãy tìm thấy sự ưu việt này trong tâm của bạn. Những cấu trúc bên ngoài, như chánh điện này, chỉ là cái vỏ cây; chúng không phải là lõi cây.

Nếu bạn có trí huệ, bất cứ ở đâu, bạn cũng đều nhìn thấy Phật Pháp. Nếu bạn thiếu trí huệ, thì ngay cả những điều tốt cũng trở thành xấu. Sự xấu này từ đâu đến vậy? Từ trong tâm của chúng ta. Hãy thử xem tâm này thay đổi ra sao! Vợ chồng đang chung sống vui vẻ, họ có thể chuyện trò với nhau rất vui vẻ. Nhưng có một ngày khi họ bực tức, bất cứ điều gì người hôn phối của mình nói ra cũng khiến mình khó chịu. Tâm trở nên xấu đi, nó lại thay đổi.

Cho nên để có thể buông bỏ điều ác và trau dồi điều thiện, bạn không cần phải tìm kiếm ở một nơi nào khác. Nếu tâm của bạn trở nên xấu, đừng nhìn vào những người khác. Chỉ nhìn vào chính tâm của mình và tìm xem những tư tưởng này từ đâu đến. Tại sao đầu óc nghĩ những thứ như thế? Hãy biết rằng tất cả mọi thứ đều tạm bợ. Bạn có thương yêu con cái của mình không? Dĩ nhiên là có. Bạn có bao giờ ghét chúng không? Tôi sẽ trả lời điều đó cho bạn luôn. Bạn có lúc tức giận chúng, phải không? Bạn không thể quẳng chúng đi, phải không? Tại sao không? Con cái không giống như những viên đạn. Đạn thì bắn ra ngoài, nhưng con cái bắn ngay vào tim của cha mẹ. Nếu con cái ngoan hiền, cha mẹ nhận lấy sự ngoan hiền đó. Nếu con cái hư đốn, cha mẹ cũng nhận lấy sự hư đốn đó. Bạn có thể cho rằng con cái là nghiệp quả của bạn. Có nghiệp tốt mà cũng có nghiệp xấu. Cả hai thứ tốt và xấu đều ở đó nơi con cái của bạn. Nhưng ngay cả những đứa xấu cũng quý giá. Có thể một đứa sinh ra đã bại liệt hay tật nguyền, và bạn càng thương yêu nó hơn những đứa khác. Mỗi khi đi vắng nhà, dầu chỉ một lúc, bạn phải để lại lời nhắn nhủ, “Nhớ chăm sóc cho đứa út nhé, nó yếu ớt lắm”. Bạn thương nó hơn những đứa con khác.

Con cái là nghiệp quả của bạn. Chúng thích hợp với người chủ của chúng. Chúng là nghiệp chướng của bạn, nên bạn phải có bổn phận đối với chúng. Nếu chúng thật sự làm cho bạn đau khổ, hãy tự nhắc nhở mình, “Đó là nghiệp quả của mình”. Nếu chúng làm cho bạn vui vẻ, hãy tự nhắc nhở mình, “Đó là nghiệp quả của mình”. Đôi lúc đời sống gia đình căng thẳng đến độ bạn muốn trốn chạy đi nơi khác. Có khi tệ đến nỗi có người còn nghĩ đến việc treo cổ tự vẫn! Nó là nghiệp chướng. Chúng ta phải chấp nhận sự thật. Đừng làm những điều dại dột, rồi bạn sẽ có thể nhìn thấy chính mình rõ ràng hơn mỗi ngày.

Đây là lý do tại sao bạn cần tập quán xét sự việc. Khi hành thiền, bạn có thể sử dụng một đối tượng như chữ Buddho, hay một câu nói khác. Chẳng hạn mỗi khi bạn cảm thấy bức rức, mỗi khi đầu óc nghĩ ngợi lung tung, chỉ việc nói, “Thì sao chứ!” Khi bạn cảm thấy dễ chịu hơn, chỉ việc nói, “Thì sao chứ! Cảm giác này đâu có chắc chắn”. Nếu bạn yêu một người nào, chỉ việc nói, “Thì sao chứ!” Khi bạn cảm thấy muốn tức giận, chỉ việc nói, “Thì sao chứ!” Bạn có hiểu không? Bạn không cần phải nghiên cứu tam tạng kinh điển để biết phải làm sao.

Chỉ việc nói, “Thì sao chứ!” Điều này có nghĩa là “nó chỉ là tạm bợ thôi”. Tình yêu tạm bợ. Sự thù ghét cũng tạm bợ. Điều thiện cũng tạm bợ. Sự ác cũng tạm bợ. Làm sao chúng có thể thường hằng được? Có sự thường hằng vĩnh cửu nào ở trong chúng không?

Phút này thì yêu thương, phút sau thì thù ghét. Là như thế đó. Đó là tại sao tôi nói rằng mỗi khi tình thương phát sinh, chỉ việc nói với nó, “Thì sao chứ!” Nó sẽ tiết kiệm cho bạn rất nhiều thời giờ. Bạn không phải nói, “Vô thường, khổ, vô ngã”. Nếu bạn không muốn thiền án dài dòng, chỉ sử dụng câu nói giản dị này. Nếu tình yêu phát sinh, trước khi bạn chìm đắm trong đó, hãy tự nhủ, “Thì sao chứ!” Thế là đủ.

Mọi thứ đều vô thường. Chỉ nhìn thấy bấy nhiêu thôi là nhìn thấy cốt tủy của Phật pháp.

Bây giờ, nếu mọi người nói, “Thì sao chứ!” thường xuyên hơn, và huấn luyện chính mình theo cách này, thì mọi ràng buộc sẽ tiêu tan dần. Con người sẽ không dính mắc vào sự yêu thương hay thù ghét. Họ không bám víu vào việc gì nữa. Họ sẽ đặt niềm tin của mình vào chân lý, không vào những thứ khác. Chỉ biết bấy nhiêu là đủ rồi. Bạn còn muốn biết gì khác nữa?


Sau khi nghe pháp, hãy ráng nhớ những lời giảng dạy. Bạn nên nhớ điều gì? Thiền định. Có hiểu không? Nếu bạn hiểu, và tin tưởng vào Phật Pháp, đầu óc sẽ ngừng quấy nhiễu bạn. Nếu tâm cảm thấy tức giận, chỉ việc nói, “Thì sao chứ! Nó là vô thường,” và thế là đủ. Nó ngừng ngay tại đó. Nếu bạn vẫn chưa hiểu, hãy suy ngẫm thêm một chút.


Chương 5 

Lục căn : cội nguồn của trí huệ


Lục căn có thể mang đến cho 
chúng ta sự khoái lạc và mê đắm, 
nhưng chúng cũng có thể dẫn tới 
sự hiểu biết và trí huệ.


Chúng ta quyết định tu hành theo Phật Pháp để mong đạt được tâm bình an. Nhưng sự bình an chân thật là gì? Sự bình an chân thật, Đức Phật nói, không ở đâu xa xôi - nó ở ngay bên trong chúng ta, chỉ là chúng ta không nhận ra nó mà thôi. Ai cũng mong tìm được sự bình an nhưng chỉ thấy toàn là sự kích động và hỗn loạn. Họ không tin vào chính mình và chưa thỏa mãn với sự tu hành của mình. Nó tương tự như khi chúng ta rời khỏi nhà, đi hết nơi này đến nơi kia, nhưng chừng nào chúng ta chưa về lại nhà, chúng ta sẽ không thấy thoả mãn. Chúng ta vẫn còn công việc để làm. Đó là bởi vì hành trình của chúng ta chưa hoàn tất, chúng ta chưa đạt đến mục tiêu của mình.

Ai cũng muốn được bình an. Khi tôi còn trẻ, tôi tìm kiếm nó khắp nơi. Nhưng đến đâu, tôi cũng không thoả mãn. Tôi lang thang trong rừng, viếng thăm nhiều vị thầy, đi nghe nhiều buổi thuyết Pháp, nhưng ở đâu tôi cũng không thấy thoả mãn. Tại sao vậy? Chúng ta tìm kiếm sự bình an ở những nơi có rất ít cảnh sắc, âm thanh, mùi vị, tin rằng sống yên tĩnh như thế sẽ dẫn tới sự mãn túc. Nhưng sự thật thì, nếu chúng ta sống quá yên lặng ở những nơi mà không có gì xảy ra cả, trí huệ làm sao có thể phát sinh? Chúng ta có cảm nhận được một điều gì không? Thử nghĩ đi. Điều gì sẽ xảy ra nếu mắt không nhìn thấy cảnh sắc, mũi không ngửi được gì, lưỡi không nếm được vị nào, thân thể không có cảm xúc? Sống như thế là sống như một người đui và điếc, một người mà mũi và lưỡi đã sứt mất và thân thể hoàn toàn tê liệt, còn có gì ở đó nữa không? Vậy mà nhiều người nghĩ rằng nếu họ đi đến một nơi không có gì xảy ra, họ sẽ tìm được sự bình an.

Khi mới xuất gia, tôi ngồi thiền và cảm thấy nhiều tiếng động quấy nhiễu mình. Tôi nghĩ, “Làm sao để cho tâm được bình an đây?”. Thế là tôi lấy sáp ong nhét vào hai lỗ tai để tôi không thể nghe gì nữa. Tôi nghĩ rằng như thế là bình an rồi. Nhưng không. Tất cả những tư tưởng và sự hỗn mang không đến từ lỗ tai. Chúng đến từ trong tâm của tôi. Đó mới là nơi để tìm kiếm sự bình an.

Cho nên, dầu là ở đâu, bạn cũng không muốn làm điều gì cả bởi vì bạn cho rằng những việc đó chỉ quấy nhiễu sự tu hành của bạn. Bạn không muốn quét sân hay làm những việc như vậy. Bạn chỉ muốn ngồi yên và tìm sự bình an theo kiểu đó. Vị thầy yêu cầu bạn giúp đỡ trong công việc hàng ngày, nhưng bạn chỉ làm cho chiếu lệ bởi vì bạn cho rằng đó là những chuyện bên ngoài.

Một trong các đệ tử của tôi rất muốn “buông bỏ” và tìm sự bình an. Tôi từng giảng dạy về “sự buông bỏ,” nên anh ta nghĩ rằng bằng cách buông bỏ tất cả, anh sẽ được bình an. Ngay ngày đầu tiên đến đây, anh từ chối làm bất cứ công việc gì. Ngay cả khi gió thổi bay mất nửa cái mái chòi của mình, anh cũng không làm gì cả. Anh nói đó chỉ là chuyện bên ngoài. Thế là anh không bận tâm sửa chữa nó. Khi nắng chiếu, anh dời qua, khi mưa rơi, anh dời lại. Công việc duy nhất của anh là tìm kiếm sự bình an. Những việc khác không đáng để bận tâm.

Một hôm tôi đi ngang qua chòi của anh, nhìn thấy mái nhà sụp đổ. “Ủa, chòi của ai vậy?” tôi hỏi. Khi biết đó là chòi của anh ta, tôi mới nói chuyện với anh, giải thích nhiều việc, chẳng hạn như, bổn phận của tăng sĩ đối với chỗ trú ẩn của mình.“Chúng ta phải có một nơi trú ẩn, và chúng ta phải chăm sóc cho nó. ‛Buông bỏ’ không phải giống như vậy. Nó không có nghĩa là trốn tránh trách nhiệm của mình. Đó là hành vi của một người ngu. Khi trời mưa, anh dời qua phía bên này cái chòi. Rồi khi trời nắng chói chang, anh dời trở lại phía bên kia. Tại sao vậy? Tại sao anh không quan tâm gì cả thế?” Tôi giảng giải cho anh ta một hồi lâu.

Khi tôi nói xong, anh ta nói, “Ồ, tôi thật không hiểu. Lúc thì ngài dạy tôi buông bỏ, lúc thì ngài bảo tôi bám víu. Tôi không biết phải làm gì đây. Ngay cả khi mái nhà sụp đổ và tôi đã buông bỏ đến mức độ này, ngài vẫn cho rằng làm như thế là không đúng. Tôi thật không biết phải làm gì mới đúng”.

Có những người như vậy đó. Họ ngu đến như thế.

Các giác quan như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và tâm đều là những thứ có thể giúp bạn phát sinh trí huệ, nếu chúng ta hiểu biết bản chất của chúng. Nếu chúng ta không thật sự hiểu biết chúng, chúng ta phải từ chối chúng, nói rằng chúng ta không muốn thấy, muốn nghe, v.v..., bởi vì chúng quấy nhiễu chúng ta. Nếu chúng ta dứt tuyệt những điều này, thì chúng ta lấy gì để mà quán chiếu?

Đây là tại sao chúng ta cần phải thu thúc lục căn. Kiềm thúc là giới. Có giới luật về sự kiềm thúc lục căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và tâm. Những thứ này là giới luật, và chúng là sự thiền định của chúng ta. Hãy suy ngẫm câu chuyện sau đây về Xá-lợi-phất. Có một lần, trước khi thọ giới tỳ kheo, ông nhìn thấy một vị sa môn đang đi khất thực, và suy nghĩ, “Vị tăng này rất khác thường. Ông không đi quá nhanh hay quá chậm, áo choàng thì rất cũ, nhưng phong thái thì thu thúc”. Xá-lợi-phất cảm thấy thích vị tăng đó, nên tiến đến gần, cung kính chào và hỏi:

“Thưa ngài, ngài là ai?”
“Tôi là một sa-môn”.
“Thầy của ngài là ai vậy?”.
“Đức Thích Ca Mâu Ni là thầy của tôi”.
“Đức Thích Ca Mâu Ni dạy điều gì thế?”
“Ngài dạy rằng tất cả các pháp sinh khởi đều do nhân duyên. Khi chúng ngừng, đó là vì nhân duyên ngừng”.

Khi Xá-lợi-phất hỏi về Phật Pháp, vị sa môn cho ông một bài pháp ngắn về lý nhân quả. Các pháp sinh khởi bởi vì có nguyên nhân. Nhân đến trước và quả theo sau. Nếu muốn ngừng quả, nhân phải ngừng trước. Đó là tất cả những gì ông nói, nhưng như thế là đủ đối với Xá-lợi-phất rồi.

Đây là nguyên nhân cho sự phát sinh của pháp. Vào lúc đó, Xá-lợi-phất có đủ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm. Lục căn của ông đều nguyên vẹn. Nếu không có lục căn đó, liệu ông có đủ nhân duyên để trí huệ phát sinh không? Liệu ông có chứng ngộ được điều gì không? Nhưng đa số chúng ta sợ tiếp xúc. Hoặc là chúng ta thích tiếp xúc, nhưng chúng ta không đạt được chút trí huệ nào từ đó cả. Thay vì vậy, chúng ta tiếp tục chạy theo lục căn, ham thích lục trần và chìm đắm trong đó. Lục căn có thể mang đến cho chúng ta sự khoái lạc và mê đắm, nhưng chúng cũng có thể dẫn tới sự hiểu biết và trí huệ.

Cho nên chúng ta nên sử dụng mọi thứ để tu tập. Ngay cả những điều xấu. Khi chúng ta nói về sự tu hành, chúng ta không chỉ đề cập đến những điều thiện lành và tốt đẹp. Không phải vậy. Trong thế giới này, có thứ chúng ta thích, có thứ chúng ta không thích. Thường thì những gì chúng ta thích chúng ta muốn có, ngay cả người xuất gia. Bất cứ vị tăng nào chúng ta không thích, chúng ta không muốn liên hệ với ông, chúng ta chỉ muốn tiếp xúc với những người mình thích. Thấy không? Đây là sự chọn lựa dựa vào sự ưa thích của chúng ta. Thường thì bất cứ những gì chúng ta không thích, chúng ta không muốn thấy hay biết đến chúng. Nhưng Đức Phật muốn chúng ta kinh nghiệm những điều này. Hãy nhìn vào thế gian và nhận biết nó rõ ràng. Nếu chúng ta không biết rõ bản chất của thế gian, chúng ta không đi đến đâu cả. Sống trong thế gian, chúng ta phải hiểu thế gian. Những Thánh Nhân khai ngộ trong quá khứ, bao gồm Đức Phật, đều sống với những thứ này. Họ sống trong thế giới này, giữa những người vô minh, và chứng ngộ chân lý ngay nơi đây, không nơi nào khác. Nhưng họ có trí huệ. Họ đã kiềm lục căn của họ.

Kiềm thúc không có nghĩa là chúng ta không thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm xúc, hay suy nghĩ gì cả. Nếu hành giả không hiểu điều này, thì ngay khi họ vừa nhìn thấy hay nghe một điều gì, họ sẽ chạy như bay đi nơi khác, cho rằng làm như thế,trần cảnh sẽ mất dần lực lượng đối với họ, để rồi cuối cùng họ sẽ vượt lên khỏi nó. Nhưng họ sẽ không đi đâu cả. Họ sẽ không vượt lên một thứ gì cả bằng cách đó. Nếu họ chạy đi nơi khác, mà không hiểu bản chất của nó, thì sớm muộn rồi, nó cũng sẽ quay lại, và họ sẽ phải đối diện với nó lần nữa.

Chẳng hạn, có những hành giả không bao giờ hài lòng, dầu họ ở tại tu viện, trong rừng, hay trên núi. Họ đi lang thang, nhìn qua nhìn lại, cho rằng họ sẽ tìm thấy sự mãn túc bằng cách đó. Họ lên đến đỉnh núi và reo lên, “A! Đây rồi, ta đã tìm được rồi”. Họ sống bình an được vài ngày và rồi cảm thấy chán. “Hay mình thử ra bờ biển”. “Ồ, ở đây mát mẻ, thoải mái quá. Chỗ này thích hợp với mình hơn”. Sau một lúc, họ lại chán. Chán rừng, chán núi, chán biển, chán hết mọi thứ. Đây không phải là sự chán ngán thế gian theo đúng nghĩa - cái mà nhà Phật gọi là Chánh Kiến. Nó chỉ là sự buồn chán - một quan niệm sai lầm.

Khi họ trở lại tu viện, “Bây giờ, mình sẽ làm gì đây? Mình đã đi khắp nơi và trở lại với tay không”. Thế rồi, họ quăng bỏ y bát và hoàn tục. Tại sao họ hoàn tục? Bởi vì họ không hiểu ý nghĩa của sự tu hành. Họ không thấy còn có gì để làm nữa. Họ lên bắc, xuống nam, lên núi, xuống biển, mà vẫn không liễu ngộ điều gì cả. Vậy là xong, họ “chết”. Đó là bởi vì họ cứ tìm cách trốn tránh mọi thứ. Trí huệ không phát sinh.

Sau đây là một thí dụ khác. Giả sử có một nhà sư quyết định chấp nhận thực tại thay vì trốn chạy. Ông tự lo cho mình. Ông biết chính mình và những người khác. Ông không ngừng đối phó với những vấn đề. Giả sử ông là vị sư trụ trì. Một vị trụ trì phải đương đầu với hàng trăm công việc liên tục đòi hỏi sự chú ý của ông. Người ta không hỏi bạn điều này, thì hỏi bạn điều kia, cho nên bạn phải luôn tỉnh táo, luôn cảnh giác. Trước khi bạn có thì giờ để chợp mắt ngủ, chúng đã đánh thức bạn với một vấn đề khác. Tình trạng này khiến bạn phải xem xét và hiểu biết sự việc. Bạn trở nên tinh xảo hơn đối với chính mình và những người khác trong nhiều phương diện.

Sự tinh xảo này phát sinh từ sự tiếp cận, từ sự đương đầu và đối phó với sự việc, không phải từ sự lẩn tránh chúng. Chúng ta không trốn chạy vấn đề với thân thể của mình, nhưng chúng ta “trốn chạy” trong tâm, bằng cách sử dụng trí huệ của mình. Chúng ta hiểu biết với trí huệ ngay tại đây, chúng ta không trốn chạy bất cứ một điều gì cả.

Đây là nguồn gốc của trí huệ. Bạn phải làm việc, phải liên hệ với những thứ khác. Ví dụ, sống trong một tu viện lớn, chúng ta cùng phải làm việc để chăm sóc mọi thứ trong ngoài. Bạn có thể nói rằng tất cả những thứ này là phiền não. Sống với nhiều tăng, ni, và với nhiều người tại gia lui tới mỗi ngày, có thể phát sinh nhiều phiền não. Nhưng chúng ta phải sống như thế, để có thể phát triển trí huệ và từ bỏ vô minh. Chúng ta muốn gì chứ? Chúng ta sống là để xoá tan sự vô minh hay để tăng trưởng chúng?

Chúng ta phải quán xét. Mỗi khi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm tiếp xúc với trần cảnh, chúng ta phải bình tĩnh và cảnh giác. Khi sự đau khổ phát sinh, ai là người đau khổ? Tại sao sự đau khổ này phát sinh? Vị trụ trì một tu viện phải chăm sóc nhiều đệ tử: điều này có thể gây ra nhiều đau khổ. Nếu chúng ta sợ đau khổ và không muốn đối diện chúng, chúng ta đi đâu để tranh đấu với chúng? Nếu đau khổ phát sinh và chúng ta không biết, làm sao chúng ta đối phó với chúng?

Thoát ly khổ đau có nghĩa là biết cách thoát khỏi khổ đau, chứ không có nghĩa là trốn chạy mỗi khi đau khổ phát sinh. Làm như thế chỉ mang sự đau khổ đi theo bạn mà thôi.

Nếu bạn muốn nhận biết khổ đau, bạn phải nhìn vào tình trạng hiện tại. Vấn đề này sinh ở nơi nào, thì phải được hóa giải ở ngay tại nơi đó. Nơi nào có khổ đau, nơi đó phát sinh sự chấm dứt khổ đau. Khổ đau phải chấm dứt tại nơi nó phát sinh. Bạn phải giải quyết vấn đề tại nơi đó. Kẻ trốn tránh khổ đau vì sợ hãi là kẻ khờ dại nhất thế gian. Họ chỉ làm cho sự vô minh của mình sâu dày thêm mà thôi.

Đau khổ là chân lý đầu tiên của Tứ Diệu Đế. Tứ Diệu Đế bao gồm chân lý về sự khổ, chân lý về nguyên nhân của sự khổ, chân lý về sự diệt khổ, và chân lý về con đường để diệt khổ. Đừng xem sự đau khổ như là một điều ghê tởm, xấu xa. Trốn tránh khổ đau là không tu hành theo chánh pháp.

Đức Phật dạy chúng ta cách “trốn tránh” có trí huệ. Chẳng hạn, giả sử bạn đạp một cái gai và cảm thấy rất đau. Bạn sờ quanh chỗ đau, nhưng không tìm thấy gì, nên bạn nhún vai và bước đi tiếp. Một lúc sau, bạn lại đạp lên một thứ gì khác, và lại cảm thấy đau. Điều này cứ lặp lại mãi.

Nguyên nhân của sự đau đó là gì? Đó là cái gai mắc kẹt trong bàn chân bạn. Sự đau đớn này luôn kế cận một bên. Mỗi khi sự đau đớn phát sinh, bạn nhìn lại bàn chân và sờ quanh một chút, nhưng không tìm thấy cái gai, nên bạn lại thôi. Một lúc sau, nó lại đau và bạn lại nhìn lần nữa.

Khi đau khổ phát sinh, bạn phải lưu ý, đừng làm ngơ. Mỗi khi thấy đau, bạn lại tự nhắc mình, “Cái gai vẫn còn ở đó”. Mỗi khi bạn thấy đau, cái ý tưởng muốn dứt bỏ cái gai cũng phát sinh. Nếu bạn không lấy nó ra, bạn sẽ tiếp tục bị đau. Sự đau đớn sẽ cứ quay trở lại mãi, cho đến khi ý muốn loại bỏ cái gai chiếm cứ toàn bộ tâm trí của bạn. Và rồi sẽ có một lúc bạn không chịu nổi nữa và quyết định lấy cho được cái gai đó ra ngoài – bởi vì nó nhức quá!

Nỗ lực tu hành của chúng ta cũng phải giống như thế. Nơi nào có khổ đau, nơi đó có xung đột và chúng ta phải xem xét. Hãy thẳng thắn đối diện với vấn đề. Lấy cái gai ra khỏi bàn chân của bạn. Chỉ việc lôi nó ra. Bạn phải biết tâm của mình bị kẹt ở chỗ nào. Khi bạn xem xét vấn đề của mình , bạn sẽ biết nó, thấy nó, và kinh nghiệm được bản chất thật của nó.

Tuy nhiên, bạn phải kiên định và tinh tấn trong sự tu hành. Mỗi khi một cảm giác khó chịu phát sinh nơi bàn chân của bàn, chẳng hạn, bạn phải tự nhắc nhở mình lấy cái gai đó ra. Bạn không từ bỏ quyết tâm của mình. Cùng thế ấy, khi đau khổ phát sinh trong tâm, chúng ta phải quyết tâm dứt sạch tận gốc rễ mọi phiền não. Đây làm một quyết tâm kiên định và không ngừng nghỉ. Cuối cùng, mọi phiền não sẽ rơi vào tay của chúng ta, và chúng ta có thể kết liễu chúng.

Cho nên, chúng ta làm gì với sự hạnh phúc và khổ đau? Tất cả các pháp sinh khởi bởi do nhân duyên. Khi quả ngừng, đó là vì nhân đã ngừng. Nếu chúng ta không bám víu hay dính mắc vào một điều gì đó, thì cũng như rằng điều đó không hề tồn tại. Nếu có sự hiện hữu thì phải có sự phát sinh. Sự dính mắc hay ràng buộc là điều kiện tiên quyết để đưa đến sự khổ. Mỗi khi sự khổ phát sinh, hãy xem xét nó. Xem xét giây phút hiện tại. Xem xét chính thân và tâm của bạn. Khi hạnh phúc phát sinh: Đâu là nguyên nhân của niềm hạnh phúc đó? Hãy nhìn vào nơi đó. Bất cứ nơi nào những thứ này phát sinh, hãy cảnh giác. Cả hạnh phúc lẫn khổ đau phát sinh từ sự dính mắc.

Những hành giả thuở xưa xem xét tâm của mình như sau: Chỉ có sự sinh khởi và tàn lụi; không có một thực thể thường hằng. Họ suy ngẫm từ mọi khía cạnh và nhận thấy rằng không có gì nhiều với cái tâm này của họ, không có gì kiên định. Chỉ có sinh và diệt, diệt rồi sinh, không có gì có tính cách lâu dài. Trong khi đi hay ngồi, họ nhận biết sự việc như thế đó. Nhìn nơi đâu, họ cũng chỉ thấy khổ đau. Chỉ vậy thôi. Như thể một cục sắt lớn vừa được nung nóng trong lò lửa. Toàn thể cục sắt đều nóng. Nếu bạn chạm nó ở phía trên hay phía dưới, nó cũng đều nóng. Chạm vào bốn phía, phía nào nó cũng nóng. Khắp chỗ đều nóng. Không có một nơi nào trên cục sắt là mát mẻ cả.

Nếu chúng ta không suy ngẫm về những điều này, chúng ta không biết gì về chúng cả. Chúng ta phải nhìn rõ. Đừng chỉ "bị" sinh ra. Phải biết tiến trình của sự sinh. Những tư tưởng như, "Ô, tôi không chịu nổi người đó, hắn làm gì cũng sai "cả", sẽ không còn nảy sinh nữa. Hay, "Tôi rất thích cái đó". Những điều này không nảy sinh. Đó chỉ là những tiêu chuẩn thích và không thích của thế giới. Chúng ta phải sử dụng những quy ước của thế giới để đối tác với nhau, nhưng bên trong chúng ta phải rỗng không. Đây là nơi trú ẩn của những Thánh Nhân. Tất cả chúng ta phải lấy đây làm mục tiêu của sự tu hành. Đừng hoài nghi nữa.

Trước khi đi tu, tôi từng nghĩ rằng: "Chùa chiền ở khắp nơi, nhưng sao chẳng có bao nhiêu người tu hành? Hay nếu họ có đi tu, họ cũng chỉ tu một thời gian ngắn rồi hoàn tục. Còn những người không bỏ cuộc thì vẫn không nỗ lực tu hành. Tại sao vậy?" Thế rồi tôi quyết tâm, "Được ta sẽ xả bỏ thân tâm mình trong kiếp sống này và thử làm theo lời dạy của Đức Phật cho đến cuối cùng. Ta sẽ chứng ngộ ngay trong kiếp này, bởi vì nếu không, ta sẽ vẫn chìm đắm trong biển khổ. Ta sẽ buông bỏ tất cả những thứ khác và quyết tâm tu hành, bất kể khó nhọc hay khổ đau bao nhiêu, ta cũng sẽ kiên trì. Nếu ta không làm thế, ta sẽ tiếp tục nghi ngờ mãi".

Nghĩ đến như thế, tôi khởi sự tu hành. Bất kể hạnh phúc, đau khổ, hay khó nhọc bao nhiêu, tôi vẫn tiếp tục. Tôi coi cả cuộc đời mình như thể đó chỉ là một ngày một đêm. "Tôi sẽ theo lời dạy của Đức Phật. Tôi sẽ tu hành để hiểu được tại sao thế giới hư ảo này khốn khổ đến thế?" Tôi muốn biết. Tôi muốn tinh thông giáo lý, nên tôi quyết định tu hành.

Những người xuất gia chúng ta xả bỏ được bao nhiêu đời sống thế gian? Nếu chúng ta tiến bộ nhiều, có nghĩa là chúng đã xả bỏ được tất cả: Chúng ta xả bỏ tất cả những thứ mà người đời hưởng thụ - cảnh sắc, âm thanh, mùi, vị và cảm xúc. Chúng ta vất bỏ tất cả, nhưng rồi chúng ta lại kinh nghiệm chúng. Cho nên người tu hành phải thiểu dục tri túc và không dính mắc vào bất cứ thứ gì. Dầu đó là lời nói, miếng ăn, hay bất cứ gì, chúng ta cũng dễ dàng hài lòng: ăn uống giản dị, ngủ giản dị, sống giản dị. Bạn càng tu tập như thế này, bạn càng thấy mãn túc hơn nhiều.

Pháp – bạn phải tự mình chứng ngộ. Tự mình nhận biết có nghĩa là tự mình tu hành. Bạn chỉ có thể nương tựa vào vị thầy khoảng 50 phần trăm đoạn đường mà thôi. Ngay cả những gì tôi giảng dạy bạn hôm nay tự nó hoàn toàn vô dụng. Tuy rằng đó là những điều đáng nghe, nhưng nếu bạn tin vào đó chỉ vì tôi nói thế, bạn là người khờ dại. Hãy thực hành, hãy nhận biết nó bên trong chính bạn, hãy tự mình làm lấy như thế mới lợi ích hơn nhiều. Và rồi bạn sẽ biết được mùi vị của Đạo Pháp.

Đây là lí do Đức Phật không nói quá tỉ mỉ về những quả vị tu hành, bởi vì đó là những việc không thể nghĩ bàn. Cũng giống như khi bạn cố miêu tả những màu sắc khác nhau với một người mù bẩm sinh: "Nó là màu vàng tươi". Nói như thế chẳng giúp ích được bao nhiêu.

Bạn phải tự mình chứng ngộ. Nếu bạn tự mình nhận biết rõ ràng, bạn sẽ có bằng chứng rõ ràng. Dầu là đi, đứng, nằm hay ngồi, bạn đều sẽ dứt sạch nghi ngờ. Ngay cả khi có người nói, "Anh tu hành sai cách rồi," bạn vẫn không bị lay chuyển, bởi vì bạn đã có bằng chứng.

Là một người tu hành, đó là thái độ của bạn, bất cứ bạn ở đâu. Không ai có thể bảo bạn một điều gì. Bạn phải tự mình nhận biết. Chánh Kiến, bạn phải có. Nhưng để tu hành được như thế dầu chỉ một tháng cũng rất hiếm.

Có một lần tôi đến một tu viện phía bắc, và sống ở đó với một vài vị sư già mới xuất gia. Tôi đã làm tròn những bổn phận mà một vị sư trẻ thường làm - lấy thức ăn cho họ, giặt rửa y bát và đổ bô phóng uế của họ, vv... Tôi không nghĩ là mình đang làm gì cho một người nào, mà chỉ cảm thấy rằng đây là một phần trong sự tu hành của tôi. Bởi vì những người khác không làm những việc này, nên tôi làm. Chỉ thế thôi. Tôi xem đó như là một cơ hội để tạo phước báu, và tôi cảm thấy mãn nguyện.

Vào những ngày rằm hay mồng một, tôi chùi dọn chánh điện và chuẩn bị nước để rửa và uống. Những người không biết gì về việc này, nên họ chỉ đứng nhìn. Tôi không chỉ trích họ, bởi vì họ không biết. Tôi chỉ làm bổn phận, và khi hoàn tất công việc, tôi cảm thấy thật vui. Tôi có sự khích lệ và niềm hăng say trong sự tu hành của mình.

Mỗi khi tôi có thể làm một điều gì trong tu viện, dầu là việc của tôi hay của người khác, nếu thấy thứ gì dơ bẩn, thì tôi dọn sạch. Tôi không làm thế để người khác nể phục mình, nhưng chỉ để sự tu hành của tôi tốt hơn. Dọn sạch chỗ ở của bạn thì cũng giống như dọn sạch tâm của bạn.

Đây là điều mà bạn cần phải nhớ. Sống với nhau trong đạo pháp, với sự thuận hòa và kiềm thúc, với cái tâm được huấn luyện, và rồi bạn sẽ không phải lo lắng về sự hài hòa. Nó tự động phát sinh, và bạn sẽ không có vấn đề gì cả. Nếu công việc quá nặng nhọc, thì chúng ta giúp đỡ nhau, mỗi người một tay. Đó là cách tốt nhất.

Tôi cũng biết vài loại người khác, và họ cho tôi cơ hội để trưởng thành. Chẳng hạn, trong một tu viện lớn, các tỳ kheo và sa di thỏa thuận với nhau là họ giặt y phục vào một ngày nào đó trong tuần. Tôi đi nấu gỗ mít để lấy tinh chất làm thuốc giặt. Lúc đó, có vài vị sư cứ đợi một người nào khác nấu gỗ mít, rồi tới xin thuốc giặt để giặt y phục của họ. Sau đó họ về chòi, treo áo quần lên rồi đi ngủ trưa. Như thế, họ không phải chụm lửa không phải dọn dẹp. Họ cho rằng thế là khôn ngoan. Nhưng đây là ngu ngốc nhất thế gian. Những người này chỉ tăng thêm sự vô minh của họ bởi vì họ không làm gì cả. Họ nhường tất cả công việc cho người khác. Cho nên, lúc ăn, nói, hay khi làm bất cứ việc gì, hãy hãy luôn xét lại chính mình. Bạn có thể muốn sống thoải mái, ăn ngon, mặc sạch, nhưng chúng ta tới đây để làm gì? Nếu chúng ta thường xuyên suy ngẫm về điều này, chúng ta sẽ luôn lưu ý, chúng ta sẽ không quên, sẽ luôn cảnh giác. Hãy sống tỉnh giác như thế - nỗ lực tu tập trong mọi tư thế. Nếu chúng ta không nỗ lực, sự việc sẽ khác hẳn. Lúc ngồi, bạn ngồi như thể bạn đang ở dưới phố: lúc đi, bạn đi như thể bạn đang ở dưới phố. Và rồi bạn muốn đi quanh quẩn dưới phố với những người tại gia.

Nếu không nỗ lực tu hành, tâm sẽ hướng đến một nơi khác. Bạn không kháng cự và cưỡng lại đầu óc của mình, mà cho phép nó trôi nổi theo ngọn gió cảm xúc. Đây gọi là chạy theo cảm xúc của mình. Giống như một đứa trẻ, nếu chúng ta luôn chiều nó quá, nó có thể trở thành một đứa trẻ tốt không? Nếu cha mẹ chiều theo mọi ước muốn của con cái, Điều đó có tốt không? Dầu lúc đầu họ có chiều chuộng một chút, nhưng khi đứa trẻ bắt đầu nói được, đôi lúc họ sẽ la đánh chúng bởi vì họ sợ con mình hư đốn. Tâm phải được huấn luyện giống như thế. Bạn phải biết mình và biết cách huấn luyện mình. Nếu bạn không huấn luyện tâm của mình, mà đợi một người nào khác huấn luyện nó cho mình, bạn sẽ gặp phiền phức. Sự tu hành không có giới hạn. Đi, đứng, nằm, ngồi, lúc nào bạn cũng có thể tu hành. Bạn có thể chứng ngộ trong lúc dọn quét sân chùa hay khi nhìn một tia nắng chiều. Nhưng bạn phải luôn tỉnh giác. Nếu bạn hành thiền tính tấn, bạn có thể chứng ngộ vào bất cứ lúc nào, ở bất cứ nơi nào.

Đừng lơ là. Hãy lưu ý, hãy cảnh giác. Khi đi khất thực, nhiều thứ cảm xúc khác nhau có thể phát sinh, và tất cả đều là pháp để tu tập. Khi bạn trở lại tu viện và ăn cơm, có rất nhiều pháp để bạn quán xét. Nếu bạn luôn nỗ lực, tất cả những thứ này sẽ là đối tượng của thiền quán, trí tuệ sẽ nảy sinh, và bạn sẽ chứng ngộ. Nếu chúng ta có chánh niệm, chúng ta sẽ không xem thường sự việc. Chúng ta luôn quán chiếu các pháp.

Một khi đạt đến trình độ này, sự tu hành của chúng ta sẽ không biết có ngày và đêm, nó sẽ tiếp tục không ngừng. Không có gì có thể ô nhiễm sự tu hành của chúng ta, và nếu có, chúng ta sẽ nhận biết ngay lập tức. Tâm sẽ không chạy theo những thứ như: "Tôi nghĩ tôi sẽ đi tới nơi đó, hay có lẽ đi nơi kia... nhưng chỗ nọ có lẽ sẽ vui hơn". Đó là đường lối của thế gian. Đi theo đường đó, và rồi sự tu hành sẽ tiêu tan.

Hãy luôn tỉnh giác. Không ngừng quán xét. Thấy cây, thấy núi, hay thấy thú vật cũng đều là cơ hội để quán xét. Hãy mang tất cả vào trong. Quán xét chúng rõ ràng trong tâm của bạn. Khi một cảm giác nào đó nảy sinh, hãy nhận biết nó rõ ràng.

Bạn có bao giờ thấy một cái lò gạch chưa? Người ta đốt lửa cách cái lò khoảng một thước. Nếu chúng ta làm lò gạch đúng cách, tất cả hơi nóng sẽ đi vào trong lò, và công việc sẽ hoàn tất nhanh chóng. Cùng thế ấy, tất cả mọi cảm xúc của chúng ta cần được kéo vào bên trong để được chuyển thành Chánh Kiến. Lúc nhìn, nghe, lúc nghe, lúc ngửi, lúc nếm - tâm kéo tất cả vào trong. Những cảm xúc này có thể dẫn đến sự phát sinh trí huệ.


Chương 6

Hiểu luật


Nếu bạn không biết chắc, 
thì đừng nói, đừng làm điều 
đó, đừng buông lung.


Tu hành không phải dễ. Có rất nhiều thứ mà chúng ta không biết - chẳng hạn, những giáo lý như “biết thân, thì biết được thân trong thân” hay “biết tâm, thì biết được tâm trong tâm”. Nếu chúng ta chưa tu tập những điều này, chúng ta có thể không hiểu gì cả. Trong quá khứ, tôi đã từng là một vị thầy, nhưng chỉ một vị “thầy nhỏ”. Tại sao tôi nói là một “vị thầy nhỏ?” Bởi vì lúc đó tôi không tu hành. Tôi dạy luật nhưng tôi không hành luật. Một người như vậy, tôi gọi là một vị thầy nhỏ, một vị thầy thấp. Tôi nói là một “vị thầy thấp” bởi vì tôi chưa tu hành tới đâu cả. Sự tu hành của tôi lúc đó còn ở dưới xa, cứ như thế tôi chưa biết gì về giới luật.

Tuy nhiên, ý tôi muốn nói là trên thực tế, khó có thể hiểu biết Luật tạng hoàn toàn, bởi vì có những thứ, dầu chúng ta biết hay không, vẫn bị xem là vi phạm. Thật là rắc rối. Thế nhưng chúng ta buộc phải học hỏi và tôn trọng mỗi một giới luật. Nếu không hiểu một điều gì, chúng ta phải cố gắng học hỏi. Nếu chúng ta nỗ lực, tự nó đã là một sự vi phạm.

Giả sử có một người đàn bà và bạn không biết đó là đàn bà hay đàn ông, bạn chạm vào người đó. Bạn không biết chắc người này là đàn ông hay đàn bà, nhưng bạn vẫn chạm vào người họ, đó là sai. Có một lúc, tôi cũng không hiểu tại sao như thế là sai, nhưng sau này tôi mới nhận ra rằng người tu hành phải cảnh giác, phải thận trọng. Lúc nói chuyện, đụng chạm hay nắm vật gì, họ phải suy nghĩ trước. Sự sai lầm ở đây là hành giả không tỉnh giác hay thiếu thận trọng.

Sau đây là một thí dụ khác. Trời mây mù nên dầu chỉ mới 11 giờ trưa mà thấy giống như đã chiều tối. Chúng ta không thấy mặt trời mà cũng không có đồng hồ, và chúng ta nghĩ rằng lúc này là buổi chiều. Chúng ta thật sự cảm thấy rằng lúc này là buổi chiều, nhưng chúng ta vẫn đi kiếm một thứ gì đó để ăn. Khi chúng ta bắt đầu ăn thì mây kéo đi và mặt trời chiếu rọi. Nhìn vị trí mặt trời, chúng ta biết bấy giờ là vào khoảng 11 giờ trưa. Dầu là thế, chúng ta vẫn bị xem là phạm giới. Tôi đã từng bâng khuâng, “Hả? Tại sao vậy? Chưa đến giữa trưa thì làm sao có thể gọi hành động đó là phạm giới được”.

Ở đây, chúng ta phạm giới là vì sự lơ là, không dè dặt và không kiềm chế. Nếu nghi ngờ mà vẫn làm, đó là phạm giới. Chúng ta nghĩ rằng trời đã chiều mặc dầu sự thật thì không phải như vậy. Hành động ăn uống tự nó không phải là sai, nhưng chúng ta phạm giới vì chúng ta lơ là và bất cẩn. Nếu đó thật sự là buổi chiều, nhưng chúng ta nghĩ rằng đó không phải là buổi chiều, thì tội càng nặng hơn. Nếu chúng ta nghi ngờ mà vẫn làm, thì dầu hành động đó là đúng hay sai, chúng ta vẫn bị xem là phạm giới. Nếu hành động tự nó là không sai trái, thì tội nhẹ hơn, nhưng nếu nó là một hành động sai trái, thì tội nặng hơn. Giới luật có thể phức tạp đến vậy đó!

Có một lần, tôi đọc cuốn kinh Luật (Silanidesa), đầu tôi cảm thấy như muốn nổ tung! Tôi cho rằng những điều này là bất khả thi đối với con người. Nhưng rồi tôi nghĩ, Đức Phật sẽ chẳng giảng dạy một điều gì mà chúng ta không thể thực hành. Ngài sẽ chẳng dạy những điều đó và Ngài sẽ chẳng công bố nó, bởi vì những điều đó chẳng lợi ích gì cho Ngài hay cho những người khác.

Vào lúc đó, tôi vẫn còn vật lộn với sự tu hành của mình. Tôi bị kẹt. May thay, tôi có cơ hội gặp Đại Đức Ajahn Mun, nên tôi hỏi ngài, “Đại Đức Ajahn, tôi phải làm sao đây? Tôi mới tu, và vẫn chưa biết tu thế nào mới đúng. Tôi nghi ngờ nhiều thứ quá”.

Ông hỏi, “Vấn đề là gì vậy?”

“Trên đường tu hành, tôi có đọc cuốn kinh Luật. Tôi cảm thấy nó rất li ti và không thực tiễn chút nào. Tôi không tin là có người nào thực hành được tất cả. Không cách nào có thể nhớ hết tất cả những quy luật nhỏ nhặt trong đó. Tôi không thể làm được”.

Ông nói với tôi, “Đúng là có rất nhiều thứ trong đó, nhưng thật sự thì không nhiều. Nếu chúng ta phải nhớ hết mọi giới luật trong Luật Tạng, thì khó thật. Nhưng sự thật thì cái mà chúng ta gọi là giới luật nảy sinh từ đầu óc con người. Nếu chúng ta huấn luyện đầu óc này để nó biết xấu hổ và sợ làm điều ác, thì chúng ta sẽ kiềm thúc, chúng ta sẽ thận trọng.

“Điều này sẽ khiến chúng ta biết thiểu dục tri túc, bởi vì chúng ta không thể chăm sóc quá nhiều thứ, và rồi chúng ta trở nên tỉnh giác hơn rất nhiều. Chúng ta sẽ có thể duy trì sự tỉnh giác vào mọi lúc. Bất kỳ là ở đâu, chúng ta cũng cố duy trì sự tỉnh giác. Chúng ta trở nên thận trọng hơn. Mỗi khi bạn nghi ngờ một điều gì, đừng nói điều đó, đừng làm việc đó. Nếu có gì bạn không hiểu, hỏi vị thầy. Cố thực thi mọi giới luật là điều rất phiền toái, nhưng chúng ta nên xem thử mình có sẵn sàng nhận lỗi không. Chúng ta có chấp nhận chúng không?

Giới luật rất quan trọng. Chúng ta không nhất thiết phải nhớ hết mỗi một giới, nhưng chúng ta phải biết cách điều phục tâm của mình.

“Tất cả những thứ mà bạn từng đọc nảy sinh trong đầu. Nếu bạn vẫn chưa huấn luyện đầu óc để có được sự nhạy bén và sáng suốt, bạn sẽ luôn luôn nghi ngờ. Hãy nhớ đến giáo lý của Đức Phật. Hãy tĩnh tâm. Bất cứ điều gì khiến bạn nghi ngờ, đừng nghĩ tới nó. Nếu bạn không biết chắc một điều gì, thì đừng nói hay làm điều đó. Chẳng hạn, nếu bạn bâng khuâng, “Không biết điều này là đúng hay sai?” - nếu bạn không biết chắc, thì đừng nói, đừng làm điều đó, đừng buông lung.

Sự giảng dạy này rất phù hợp với tám phương pháp (Bát Chánh Đạo) để đo lường chánh pháp của Đức Phật. Bất cứ giáo lý nào nói về sự tiêu trừ phiền não, đưa con người thoát khỏi khổ đau, giảng dạy sự xa lìa dục lạc, tri túc, khiêm tốn, từ bỏ danh lợi, ẩn dật, tinh tấn, và sống giản dị là bản chất của Pháp Luật (Dhamma-vinaya), là giáo lý của Đức Phật. Bất cứ thứ gì đi ngược lại đường lối này thì không phải là giáo lý của Đức Phật.

Nếu chúng ta thành tâm, chúng ta sẽ biết xấu hổ và sợ làm sai. Chúng ta sẽ biết rằng khi nghi ngờ một điều gì, chúng ta sẽ không nói hay làm điều đó.

Khi nghiên cứu tạng luật với Đại Đức Ajahn Mun, tôi đã học hỏi được rất nhiều thứ. Có những ngày trong kỳ an cư kiết hạ, tôi nghiên cứu nó từ sáu giờ chiều cho đến sáng hôm sau. Tôi hiểu rất nhiều. Tôi đã nỗ lực rất nhiều để thực thi những quy luật này, nhưng sau này, tôi buông bỏ chúng dần. Có quá nhiều thứ. Tôi không biết đâu là chính, đâu là phụ. Tôi thâu gom hết. Khi tôi hiểu rõ hơn, thì tôi xã bỏ dần, bởi vì nó nặng nề quá. Tôi chỉ quan sát tâm của mình và dần dần bỏ đi phần chữ.

Tuy nhiên, khi giảng dạy các tăng sĩ ở đây, tôi vẫn lấy luật tạng làm tiêu chuẩn. Tôi thường đọc cho các đệ tử nghe, có khi đến nửa đêm. Chúng tôi vẫn cảm thấy thích thú. Thật ra, bạn không thể hiểu kinh luật chỉ bằng sự lắng nghe. Bạn phải cứu xét và suy ngẫm nhiều.

Mặc dầu tôi nghiên cứu những thứ này đã nhiều năm, tôi vẫn không hiểu hết tất cả, bởi có nhiều điều rất tối nghĩa và mơ hồ trong sách. Đã nhiều năm rồi, tôi chưa nhìn lại sách luật và đã quên khá nhiều thứ, nhưng tâm tôi không hề có sự nghi ngờ hay thiếu sót. Tôi hiểu. Tôi đặt sách vở qua một bên và tập trung phát triển tâm của mình. Tâm biết giá trị của giới hạnh, nên nó không làm điều gì sai trái cả. Tôi không giết thú vật, ngay cả những con vật nhỏ. Nếu có người nào yêu cầu tôi giết một con kiến hay con mối, đập chết nó với đôi tay của mình, chẳng hạn, tôi không thể làm được dầu họ có cho tôi rất nhiều tiền. Dầu chỉ một con kiến hay một con mối thôi! Đối với tôi, đời sống của con kiến có giá trị nhiều hơn một đống tiền.

Tuy nhiên, có thể tôi đã làm cho một côn trùng chết, chẳng hạn như khi một thứ gì đó bò lên chân tôi và tôi phủi nó đi. Có lẽ nó chết, nhưng khi nhìn vào tâm mình, tôi không thấy có mặc cảm tội lỗi.

Không nao núng hay nghi ngờ gì cả. Tại sao? Bởi vì ý định sát hại không có ở đó. “Ý định là cốt tủy của sự trau dồi đức hạnh”. Trong quá khứ, khi chưa hiểu biết, tôi sẽ đau khổ về những việc như thế. Tôi sẽ cho rằng mình phạm giới. “Phạm giới gì? Đâu có ý muốn ở đó”. Không có ý định, đúng, nhưng tôi đã không thận trọng!” Tôi sẽ nghĩ như thế mãi, rồi buồn phiền và bực dọc.

Cho nên giới luật này có thể quấy nhiễu người tu hành, nhưng nó cũng có giá trị của nó, đó là “Bất cứ giới luật nào bạn chưa biết, bạn phải học hỏi. Nếu bạn không biết, bạn nên hỏi những người biết”. Họ thật sự nhấn mạnh điều này.

Bây giờ nếu chúng ta không biết giới luật, chúng ta sẽ không biết là mình đang vi phạm chúng.

Chẳng hạn, có một hôm, đệ tử của Đại Đức Ajahn Por, đang ngồi với ngài, thì có vài phụ nữ đến hỏi Ajahn Pow.

Luang Por! Chúng tôi muốn mời ngài đi tham quan với chúng tôi”.

Luang Por không trả lời. Thấy thầy yên lặng, người đệ tử mới nói:

“Luang Por, Luang Por! Ngài có nghe không?” Những phụ nữ này mời ngài đi chơi”.

Ông đáp, “Ta nghe”.

Những phụ nữ này lại hỏi, “Luang Por, ngài có đi không?”

Ông chỉ ngồi đó yên lặng, và lời thỉnh cầu đó chẳng đi tới đâu cả. Khi họ đi hết, người đệ tử mới hỏi,

“Luang Por, tại sao ngài không trả lời những người đàn bà đó?”

Ông nói, “Này con, con không biết quy định này sao? Những người vừa mới đây đều là phụ nữ. Nếu phụ nữ mời con đi với họ, con không nên chấp thuận. Nếu họ tự mình sắp xếp mọi việc, thì không sao. Trong trường hợp đó, ta có thể đi nếu ta muốn, bởi vì ta không dự phần trong sự sắp xếp này”.
Sách luật nói rằng việc sắp xếp để đi chung với phụ nữ, dầu là đi với một nhóm người, không phải với một người, cũng bị xem là phạm giới.

Một ví dụ khác. Đôi lúc, người tại gia đặt tiền trên một cái khay để cúng dường Đại Đức Ajahn Pow. Ông đưa tấm vải nhận cúng dàng ra, tay nắm ở đầu kia tấm vải. Nhưng khi người ta đặt khay tiền trên tấm vải, ông rút tay khỏi tấm vải. Rồi ông cứ để tiền ở đó. Ông biết nó ở đó, nhưng ông không quan tâm đến nó, mà chỉ việc đứng dậy và đi nơi khác. Ông làm thế bởi vì kinh luật nói rằng nếu ta không chấp thuận món tiền nào đó, ta không cần phải ngăn cấm người tại gia cúng dàng nó. Nếu ông thật sự thích món tiền đó, ông sẽ phải nói, “Này người, tu sĩ không được phép nhận tiền”. Ông sẽ phải nói với họ như thế. Nếu bạn muốn một điều gì đó, bạn phải ngăn cấm người ta cúng dàng những gì không được phép nhận. Tuy nhiên, nếu bạn thật sự không ước muốn điều đó, bạn không cần phải nói gì cả. Bạn chỉ việc để đó và đi nơi khác.

Mặc dầu Ajahn và các đệ tử của ngài sống với nhau đã nhiều năm, có vài người vẫn không hiểu sự tu hành của ngài. Thật đáng buồn. Riêng tôi, tôi thấy trong sự tu hành của ngài Ajahn Pow, có nhiều điều rất tinh tế mà tôi cần phải xem xét và suy ngẫm.

Giới luật có thể làm cho một số người hoàn tục. Khi nghiên cứu kinh luật, họ khởi đủ thứ niệm nghi ngờ. Họ nghĩ về quá khứ. Nghi lễ thọ giới của mình lúc trước có đúng không nhỉ? Không biết vị tăng truyền Pháp cho mình có tinh khiết không? Không có tỳ kheo nào ngồi trong buổi lễ thọ giới của mình biết chút gì về giới luật, nên không biết họ có ngồi đúng khoảng cách không? Không biết mình tụng kinh có đúng phương pháp không?” Hết nghi ngờ này đến nghi ngờ khác. “Chánh điện mà mình thọ giới tỳ kheo có đúng tiêu chuẩn không? Nó nhỏ quá...”. Họ nghi ngờ nhiều thứ và rơi vào địa ngục.

Cho nên đến khi nào bạn biết cách cột tâm của mình lại, nó có thể rất phiền toái. Bạn phải rất bình thản, và không quyết đoán một điều gì vội vã. Nhưng bình thản đến độ bạn không để tâm xem xét sự việc thì cũng là sai. Tôi hoang mang đến độ thiếu chút nữa là tôi hoàn tục, bởi vì tôi nhìn thấy quá nhiều lỗi lầm trong sự tu hành của chính mình và của vài vị thầy. Tôi như ngồi trên lửa và không ngủ nghê gì được bởi vì những sự nghi ngờ này.

Càng nghi ngờ, tôi càng thiền nhiều thêm, càng tu hành nhiều thêm. Sự nghi ngờ khởi sinh nơi đâu, thì tôi tu hành ngay nơi đó. Trí huệ phát sinh. Sự việc bắt đầu thay đổi. Thật khó có thể diễn tả những gì xảy ra. Tâm thay đổi mãi cho đến khi tôi không còn nghi ngờ gì nữa. Tôi không biết nó thay đổi như thế nào. Dầu tôi có diễn tả, có lẽ người ta cũng không hiểu.

Cho nên tôi suy ngẫm về luật tạng - kẻ trí phải tự mình nhận biết. Đó phải là sự hiểu biết phát sinh từ kinh nghiệm trực tiếp. Nghiên cứu luật tạng là điều nên làm, nhưng nếu chỉ nghiên cứu thôi, thì không đủ. Nếu bạn thật sự tu tập, bạn bắt đầu nghi ngờ mọi thứ. Trước khi tu hành, tôi không quan tâm đến những giới luật nhỏ, nhưng khi bắt đầu tu hành, ngay cả những giới nhỏ cũng quan trọng như những giới lớn. Trước kia, những vi phạm nhỏ có vẻ như không quan trọng gì cả. Tôi nghĩ như vậy. Đến tối bạn có thể thú tội và thế là xong. Rồi bạn có thể tiếp tục vi phạm chúng. Nhưng thú tội kiểu này là không tinh khiết, bởi vì bạn không ngừng vi phạm, bạn không quyết tâm thay đổi. Bạn vẫn không kiềm thúc, không nhận thức sự thật, không dứt bỏ - bạn cứ lặp lại lỗi lầm đó mãi.

Đúng ra thì chúng ta không cần phải thú tội làm gì. Nếu chúng ta nhận thấy tâm của mình thuần khiết và không nghi hoặc, thì những sự vi phạm đó rơi rụng ngay tại chỗ. Chúng ta chưa tinh khiết bởi vì chúng ta còn nghi ngờ, chúng ta còn nao núng. Chúng ta không thật sự tinh khiết, cho nên chúng ta không thể xả bỏ. Chúng ta không nhìn thấy chính mình - đây là vấn đề. Giới luật cũng giống như cái hàng rào bảo vệ để chúng ta không lầm lỗi, cho nên chúng ta nên trân trọng nó.

Nếu bạn không tự mình nhìn thấy giá trị thật của giới luật, bạn sẽ thấy nó khó khăn. Nhiều năm trước khi tôi đến Wat Pah Pong, tôi quyết định rời xa tiền bạc. Tôi nghĩ về điều này rất lâu. Cuối cùng, tôi cầm túi tiền của mình, đi thẳng tới người bạn đồng đạo đang chung sống với tôi vào lúc đó, và đặt túi tiền xuống trước mặt anh ta.

“Này anh, hãy giữ lấy số tiền này. Từ nay trở đi, ngày nào tôi còn là một người xuất gia, tôi sẽ không nhận tiền hay giữ tiền giữ tiền trong người. Bạn có thể là nhân chứng của tôi”.

“Hãy giữ nó, anh có thể sẽ cần nó cho việc tu học của mình”. Vị tỳ kheo đáng kính đó tỏ ra không muốn nhận túi tiền. Anh ngượng nghịu hỏi,

“Tại sao anh không muốn giữ số tiền này?”

“Anh không cần lo cho tôi. Tôi đã quyết định rồi. Tôi đã quyết định từ tối hôm qua”.

Từ ngày anh ta lấy số tiền đó, giữa hai chúng tôi dường như có một khoảng cách. Chúng tôi không còn hiểu nhau nữa. Tuy nhiên, anh ta vẫn là nhân chứng của tôi cho đến ngày hôm nay. Từ dạo đó, tôi chưa bao giờ sử dụng tiền hay dính dấp đến bất cứ sự mua bán nào. Tôi đã kiềm chế chính mình ở mọi mặt có liên quan đến tiền bạc. Tôi chỉ theo đuổi việc tu hành. Tôi không còn cần đến sự giàu có. Tôi xem nó như thuốc độc. Dầu bạn cho thuốc độc tới người, tới chó, hay tới bất cứ chúng sinh nào, nó đều dẫn đến sự chết chóc hay đau đớn. Nếu chúng ta nhận rõ điều này, chúng ta sẽ luôn cảnh giác để không uống nhầm phải “chất độc” đó. Khi chúng ta nhìn thấy sự tai hại của nó, chúng ta dễ dàng buông bỏ nó hơn.

Còn đối với những thức ăn cúng dàng, nếu tôi nghi ngờ về sự tinh khiết của chúng, tôi sẽ không nhận chúng. Dầu thức ăn đó có thơm ngon hay sạch sẽ bao nhiêu, tôi cũng sẽ không đụng đến. Ví dụ, bạn đi khất thực và nhận được một ít cơm và cá mắm gói trong lá. Khi về chỗ ở mở gói thức ăn ra, bạn thấy cá mắm - chỉ việc ném nó đi! Ăn cơm trắng tốt hơn là phạm giới. Có như thế, bạn mới có thể nói rằng mình thật sự hiểu biết giới luật. Và rồi giới luật trở nên giản dị hơn.

Nếu những vị sư khác muốn tặng tôi những đồ dùng cần thiết, như bát ăn cơm, dao cạo, hay bất cứ gì, tôi sẽ không nhận chúng trừ khi tôi biết rõ rằng người cho là những đồng đạo có cùng tiêu chuẩn trì giới như tôi. Tại sao không? Làm sao bạn có thể tin tưởng một người buông lung? Họ có thể làm đủ thứ chuyện. Những vị tăng buông lung không nhìn thấy giá trị của giới luật, cho nên họ có thể đã nhận những thứ này một cách không chính đáng. Tôi cẩn thận đến thế đó.

Vì lý do này mà vài vị tăng lườm tôi. Họ nói, “Anh ta không thích giao thiệp, anh ta không thích trà trộn với những người khác”. Nhưng tôi vẫn thản nhiên. “Lo gì, chúng ta có thể trà trộn nhau khi chúng ta chết,” tôi nghĩ, “bởi lúc đó chúng ta đều giống như nhau”. Tôi sống với sự chịu đựng. Tôi là một người ít nói. Nếu có ai chỉ trích sự tu hành của tôi, tôi vẫn thản nhiên. Tại sao? Bởi vì dầu tôi có giải thích, họ cũng chẳng hiểu. Họ không biết gì về sự tu hành. Giống như những khi tôi được mời tới một buổi lễ mai táng và có người nói, “Đừng nghe ông ta nói! Chỉ việc bỏ tiền vào túi ông ta và đừng có nói cho ông ta biết. Đừng để ông ấy biết”. Tôi nghĩ, “Này, bạn cho rằng tôi chết rồi hay sao? Chỉ vì có người gọi rượu là dầu thơm, đâu có nghĩa là rượu sẽ trở thành dầu thơm. Nhưng những người như bạn, khi muốn uống rượu, thì gọi là dầu thơm, rồi cứ thế mà uống. Các bạn đúng là điên!”.

Cho nên, luật tạng có thể rất khó. Bạn phải biết tri túc và sống tách biệt. Bạn phải nhìn thấy sự việc và nhìn thấy chúng một cách đúng đắn. Có một lần, khi tôi du hành xuyên qua Saraburi, phái đoàn của chúng tôi đến ở tại một ngôi chùa làng một thời gian. Vị trụ trì ở đó có cùng tuổi đạo với tôi. Buổi sáng, tất cả chúng tôi đều đi khất thực. Khi trở lại chùa, chúng tôi đặt bát của mình xuống. Lúc đó, những người tại gia mang những đĩa thức ăn vào phòng và đặt chúng xuống. Rồi các sư đi đến nơi để thức ăn, mở chúng ra, và sắp chúng thành hàng một. Một vị sư sẽ đặt một ngón tay vào đĩa thức ăn ở cuối hàng của đầu này, và một người tại gia sẽ đặt bàn tay của ông trên đĩa thức ăn ở cuối hàng của đầu kia. Và chỉ vậy thôi! Sau đó thì các sư sẽ bắt đầu phân phối thức ăn này để tất cả cùng ăn.

Có khoảng năm vị sư cùng đi với tôi vào lúc ấy, nhưng không ai trong chúng tôi đụng những thức ăn đó. Khi đi khất thực, tất cả chúng tôi đều nhận được một ít cơm trắng, nên chúng tôi chỉ ăn cơm trắng. Không ai trong chúng tôi dám ăn từ những đĩa thức ăn đó.

Cứ như thế được vài ngày, thì tôi bắt đầu nhận thấy thái độ khó chịu của vị trụ trì. Một trong các nhà sư của ông có lẽ đã nói với ông, “Những vị tăng đó không ăn thức ăn ở đây. Tôi không biết họ muốn gì”.

Tôi phải ở đó thêm vài ngày nữa, nên tôi đến gặp vị trụ trì để giải thích.

Tôi nói, “Thưa Đại Đức, tôi có thể nói chuyện với ngài một vài phút? Tôi sợ rằng có vài điều mà ngài và các sư trong chùa này cảm thấy ngạc nhiên, chẳng hạn như việc chúng tôi không ăn thức ăn mà người tại gia cúng dàng. Tôi xin phép được làm sáng tỏ điều này. Thật sự thì không có gì, chỉ là đường lối tu hành của tôi là như vầy - về việc nhận cúng dàng. Khi người tại gia đặt thức ăn xuống và các sư đi đến, mở thức ăn ra, và sắp xếp để thực ăn được dâng cúng một cách đúng nghi lễ, như thế là sai. Đó là một sự vi phạm giới luật. Nhất là khi vị sư nắm hay chạm vào thực ăn chưa được dâng cúng tới mình. Làm thế sẽ hư hoại thức ăn. Theo luật tạng, bất cứ vị sư nào ăn thức ăn đó sẽ bị xem là phạm giới.

“Chỉ là vì vậy thôi. Không phải tôi có ý chỉ trích người nào, hay tôi cưỡng ép ngài hay các sư sãi trong chùa ngừng làm như thế. Không phải vậy. Tôi chỉ muốn cho ngài biết đến thiện ý của tôi, bởi vì tôi cần ở lại đây thêm vài ngày nữa”.

Vị trụ trì chắp tay nói, “Hay lắm! Tôi chưa bao giờ thấy một vị sư nào giữ những quy luật nhỏ nhặt trong kinh luật như thế. Thời này, những người như vậy thật là hiếm có. Nếu có thì có lẽ họ không ở tại Saraburi này. Cho phép tôi ca ngợi ngài. Tôi không phiền hà gì cả. Đó là điều rất tốt”.

Sáng hôm sau khi chúng tôi đi khất thực về, không một vị sư nào đến gần những đĩa thức ăn này. Những người tại gia chăm lo mọi việc sắp xếp và cúng dàng thực phẩm, bởi vì họ sợ các sư không ăn. Từ đó về sau, các sư sãi có vẻ ái ngại, cho nên tôi cố giải thích cho họ hiểu, để tâm họ được an ổn. Tôi nghĩ rằng họ sợ chúng tôi. Họ cứ lẳng lặng đi vào phòng và đóng chặt cửa lại.

Những ngày sau đó, tôi phải tìm cách làm cho họ thấy thoải mái, bởi vì họ quá hổ thẹn. Tôi đâu có phiền trách họ. Tôi không hề nói những câu như, “Không có đủ thức ăn” hay yêu cầu họ mang cho tôi một thức ăn nào đặc biệt. Tôi đã từng nhịn đói, có lúc bảy, tám ngày liên tục. Ở đây tôi còn có cơm trắng để ăn. Tôi biết tôi sẽ không chết. Tôi có được sức mạnh từ sự tu hành - từ sự tu hành phù hợp với sự hiểu biết của tôi.

Tôi lấy Đức Phật làm gương. Bất kỳ tôi đi đến đâu, bất kỳ những người khác làm gì, tôi không dính dấp tới. Tôi chỉ chú tâm vào việc tu hành. Bởi vì tôi quan tâm tới chính mình. Tôi quan tâm tới sự tu hành.

Những người không trì giới hay hành thiền và những người thật sự tu hành không thể sống chung với nhau. Lúc trước tôi không hiểu điều này. Tôi từng dạy dỗ người khác, nhưng tôi không tu hành. Như vậy là không tốt. Khi tôi nhìn kỹ lại, thì mới thấy là sự tu hành của tôi và sự hiểu biết của tôi cách nhau rất xa như đất với trời.

Vì thế, với những vị tăng muốn lập trung tâm thiền trong rừng, tôi bảo họ đừng làm thế. Nếu bạn chưa thật sự chứng ngộ, hãy khoan nghĩ đến việc dạy dỗ người khác. Bạn chỉ gây thêm phiền phức. Có vài vị tăng nghĩ rằng nếu họ vào sống trong rừng, họ sẽ tìm thấy sự bình an, nhưng họ vẫn không hiểu cốt tủy của sự tu hành. Họ tự mình cắt cỏ, họ tự mình làm tất cả mọi việc. Nhưng điều đó không làm cho họ tiến bộ. Dầu đời sống trong rừng có thanh bình đi nữa bạn cũng không thể tiến bộ nếu bạn tu hành sai cách.

Họ nhìn thấy những vị sư sống trong rừng và bắt chước đi vào rừng, nhưng nó không giống nhau. Áo tu không giống nhau; cách ăn uống không giống nhau; mọi thứ đều khác cả. Và họ không tự huấn luyện, họ không tu hành. Nếu sống như thế mà có kết quả, nó chỉ là một cái cớ để phô trương hay quảng cáo, giống như một cuộc triển lãm y học. Nó sẽ chẳng đi xa hơn thế. Những người chỉ tu hành đôi chút và rồi ra ngoài dạy dỗ người khác là những người chưa hiểu biết tới nơi, tới chốn. Họ không thật sự hiểu. Không bao lâu, họ sẽ bỏ cuộc và tan rã.

Cho nên chúng ta phải học hỏi. Hãy nghiên cứu các giới luật cho đến khi bạn hiểu rõ. Lâu lâu bạn nên hỏi vị thầy về những điểm tinh tế, để được giải thích cặn kẽ. Nghiên cứu như thế cho đến khi bạn thật sự hiểu biết luật tạng.


Chương 7

Duy trì những tiêu chuẩn tu hành


Đây là những gì tôi bảo 
các chư tăng:
Đừng bỏ những sự tu hành 
căn bản của các bạn:
ăn ít, nói ít, ngủ ít, kiềm thúc, 
điềm tĩnh, và tách biệt;
kinh hành và ngồi thiền đều đặn;
họp mặt thường xuyên 
vào những giờ nhất định.
Hãy nỗ lực thực thi những điều này.


Trong buổi họp mặt hàng năm sau kỳ thi Phật Pháp, chúng tôi nhắc lại tầm quan trọng của việc hoàn tất những bổn phận trong tu viện, những bổn phận đối với các vị thầy. Những bổn phận này giúp chúng ta đoàn kết, cho phép chúng ta sống thuận hoà với nhau. Chúng cũng giúp cho chúng ta biết tôn trọng lẫn nhau, và như thế sẽ ích lợi cho cả cộng đồng.

Trong tất cả những đoàn thể, từ thời Đức Phật cho đến ngày nay, bất kể là dưới hình thức nào, nếu các thành viên không tôn trọng lẫn nhau, họ không thể thành công. Dầu đó là đoàn thể của người xuất gia hay tại gia, nếu họ thiếu lòng tôn trọng đối với nhau, họ sẽ không đoàn kết. Sự phóng túng sẽ phát sinh và sự tu hành sẽ thoái hóa dần.

Đoàn thể những người tu hành của chúng ta đã sống ở đây gần 25 năm rồi. Nó vẫn tiếp tục phát triển, nhưng nó có thể suy đồi. Chúng ta phải hiểu điều này. Nhưng nếu tất cả chúng ta đều cảnh giác, tôn trọng lẫn nhau và tiếp tục duy trì những quy định trong sự tu hành, tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ sống rất hài hoà. Sự tu hành của chúng ta sẽ đẩy mạnh sự phát triển Phật Pháp trong một thời gian rất lâu.

Học và hành phải đi đôi với nhau. Đạo Phật đã phát triển rộng lớn bởi vì sự nghiên cứu và thực hành đi đôi với nhau. Nếu chúng ta chỉ nghiên cứu kinh điển một cách qua loa, sự buông lung sẽ nảy sinh.

Năm đầu tiên ở đây, chẳng hạn, chúng ta có bảy vị tăng tham dự kỳ an cư kiết hạ. Vào lúc đó, tôi nghĩ, “Mỗi khi chư tăng bắt đầu học hỏi Phật Pháp để chuẩn bị cho kỳ thi, thì sự tu hành của họ xuống dốc”. Tôi cố tìm hiểu lý do. Tôi bắt đầu giảng dạy những vị tăng tham dự kỳ an cư kiết hạ - tất cả bảy người. Tôi thuyết giảng khoảng 40 ngày, từ sau bữa ăn sáng cho đến sáu giờ chiều, mỗi ngày. Các vị tăng dự thi, và kết quả rất khả quan: tất cả đều thi đậu.

Như thế là tốt, nhưng có một vấn đề liên quan đến những người thiếu thận trọng. Để học hỏi, vị tăng cần phải tụng đọc kinh điển rất nhiều lần. Thường thì những người buông lung và không dè dặt trở nên biếng nhác với sự hành thiền và dùng tất cả thời gian của họ để nghiên cứu, tụng đọc, và học thuộc lòng. Điều này khiến họ lơ là những bổn phận của họ, những tiêu chuẩn tu hành của họ.

Cho nên, khi những vị tăng này hoàn tất công việc nghiên cứu và thi cử của họ, tôi nhận thấy một sự thay đổi trong cách ứng xử của họ. Họ không còn đi kinh hành nữa, mà chỉ ngồi thiền một chút, và bắt đầu giao tiếp nhiều hơn. Mức độ kiềm chế và điềm tĩnh cũng giảm sút nhiều.

Thực ra trong sự tu hành của chúng ta, khi bạn đi kinh hành, bạn nên thật sự đi; khi ngồi thiền, bạn phải tập trung vào thiền quán. Bất kể là bạn đi đứng, nằm, hay ngồi, bạn đều phải cố duy trì sự điềm tĩnh. Nhưng khi các sư dành nhiều thời gian để nghiên cứu kinh điển, đầu óc họ đầy ắp chữ nghĩa, họ say mê sách vở và quên mất chính mình. Điều này xảy ra với những người không có trí huệ, những người không tự kiềm chế, và những người không có sự cảnh giác liên tục.

Họ ngày càng trở nên lơ đãng. Những cuộc chuyện trò và giao tiếp bâng quơ trở nên thường xuyên hơn. Đó không phải do bởi sự nghiên cứu kinh điển, mà do họ không nỗ lực, họ quên mất chính mình.

Thật ra, kinh điển là những sự chỉ dẫn trên đường tu hành. Nếu chúng ta thật sự hiểu biết, thì nghiên cứu kinh điển sẽ trợ giúp cho việc hành thiền. Nhưng nếu chúng ta quên mất chính mình, sự nghiên cứu kinh điển chỉ dẫn tới những cuộc thảo luận vô bổ. Người ta quẳng việc hành thiền qua một bên và không bao lâu thì họ hoàn tục. Không phải học hỏi là xấu hay sự tu hành là sai cách, nhưng những người đó không xem xét chính mình.

Thấy thế, trong kỳ an cư kiết hạ kế tiếp, tôi không thuyết giảng nữa. Nhiều năm sau đó, nhiều người trẻ đến xin xuất gia. Có người không biết gì về luật tạng và không hiểu gì về giới luật, nên tôi quyết định thay đổi đường lối của mình. Tôi yêu cầu các vị sư thâm niên làm công việc giảng dạy. Họ là những người đã từng nghiên cứu kinh điển và vẫn tiếp tục làm thế. Đây là lý do mà chúng ta có sự học hỏi giáo pháp ở đây.

Tuy nhiên, khi kỳ thi kết thúc, tôi yêu cầu chư tăng củng cố lại sự tu hành của họ. Tất cả những kinh điển nào không liên quan trực tiếp tới việc tu hành, chúng tôi cất qua một bên. Chúng tôi củng cố lại chính mình, chúng tôi trở lại với những tiêu chuẩn thường lệ, chúng tôi tái lập những truyền thống cộng đồng của mình, chẳng hạn như việc tụng kinh hàng ngày. Đây là tiêu chuẩn của chúng tôi. Chúng tôi làm thế chỉ để chống lại sự biếng nhác và hay chán của mình.

Đây là những gì tôi bảo các chư tăng: Đừng bỏ những sự tu hành căn bản của các bạn: ăn ít, nói ít, ngủ ít, kiềm thúc, điềm tĩnh, và tách biệt; kinh hành và ngồi thiền đều đặn; hợp mặt thường xuyên vào những giờ nhất định. Hãy nỗ lực thực thi những điều này. Đừng lãng phí cơ hội tuyệt vời này. Hãy tu hành. Bạn có cơ hội để tu hành ở đây, bởi vì bạn sống dưới sự hướng dẫn của người thầy. Vị thầy sẽ bảo vệ bạn ở một mức độ nào đó, cho nên bạn dồn hết tâm trí vào sự tu hành. Kinh hành, ngồi thiền, tụng kinh sáng và tối - đây là bổn phận của bạn. Hãy nỗ lực và chuyên cần.

Những người mặc áo tu mà lãng phí thời gian - những người tu hành loạng choạng, nhớ nhà, và hoang mang - họ không có đủ quyết tâm. Họ không để tâm vào sự tu hành. Chúng ta không thể cứ nằm lên nằm xuống ở nơi này. Là người xuất gia học Phật, chúng ta sống và ăn uống đầy đủ. Chúng ta không nên xem thường điều đó. Sự buông thả trong khoái lạc và thoải mái - là một điều nguy hiểm. Chúng ta nên trưởng dưỡng sự tu hành của mình, nỗ lực nhiều hơn, sửa đổi những gì sai lầm, và đừng chìm đắm vào thế giới bên ngoài.

Một người thành tâm không bao giờ lơ là việc kinh hành và ngồi thiền, không bao giờ ngừng nghỉ trong việc duy trì chánh niệm và điềm tĩnh. Một vị tăng, sau khi dùng bữa, treo chiếc áo tràng lên và chăm sóc những nhu cầu cần thiết, rồi đi kinh hành - và con đường ông đi đã mòn hẳn - vị tăng này là người có nỗ lực, là người nhiệt tâm với sự tu hành của mình.

Nếu tất cả chúng ta đều tinh cần như thế đối với sự tu hành, thì không có vấn đề gì xảy ra cả. Nếu không chuyên tâm tu hành, thì bạn tới đâu cũng như đang đi du hí mà thôi. Không thích nơi này, bạn đi nơi khác, rồi không thích chỗ đó, bạn lại quay về chỗ này. Chỉ bấy nhiêu thôi, chạy khắp nơi theo cái lỗ mũi của bạn. Bạn không cần phải đi quá nhiều nơi; chỉ việc ở lại đây - tu hành và học hỏi đến nơi đến chốn.

Tiến bộ và thoái hóa cũng là vậy. Tu hành đúng cách là quân bình sự học hỏi giáo pháp và thực hành giáo pháp. Nếu tâm an ổn và thân thể khỏe mạnh, bạn trở nên điềm tĩnh. Còn nếu tâm rối loạn, thì dầu cho thân thể có mạnh mẽ, bạn cũng gặp chướng ngại.

Hành thiền là học rèn luyện và xả bỏ. Ở đây tôi nói học có nghĩa là: Mỗi khi tâm cảm nhận một điều gì, chúng ta có bám víu vào đó không? Chúng ta có làm cho nó trở thành vấn đề không? Chúng ta có cảm thấy thích thú hay chán ghét nó không? Nói ngắn gọn: Chúng ta có còn chìm đắm trong những tư tưởng của mình không? Thường thì là như vậy. Nếu chúng ta không thích một điều gì, chúng ta tỏ ra bực bội. Nếu chúng ta thích điều đó, chúng ta cảm thấy sung sướng. Tâm trở nên ô nhiễm và phiền não. Nếu chúng ta làm thế, chúng ta phải biết rằng mình vẫn còn có vấn đề, chúng ta vẫn còn chưa hoàn mỹ, và chúng ta vẫn còn công việc để làm, đó là: xả bỏ nhiều hơn và tu hành tinh tấn hơn. Ý tôi nói học hỏi là như vậy đó. Nếu chúng ta còn dính mắc ở một nơi nào, chúng ta biết rằng mình còn bị kẹt. Chúng ta biết tình trạng hiện tại của mình, và chúng ta nỗ lực sửa đổi.

Sống bên cạnh vị thầy hay không cũng vậy. Có người cảm thấy sợ. Họ sợ bị thầy la rầy nếu họ không đi kinh hành. Điều này cũng tốt, nhưng nếu bạn thật tâm tu hành, bạn đâu cần phải sợ những người khác. Bạn chỉ sợ những lỗi lầm phát sinh từ thân, khẩu, ý của chính mình. Bạn canh phòng chính mình. Chúng ta phải nhanh chóng cải thiện mình, hiểu biết mình. Đây là cái mà tôi gọi là tu học. Hãy suy ngẫm điều này cho đến khi bạn nhận biết nó rõ ràng.

Sống cách này là dựa vào tính nhẫn nại, không chùn bước trước mọi phiền não. Mặc dầu như thế là tốt, nó vẫn còn ở đẳng cấp “tu hành mà chưa chứng đắc”. Nếu đã chứng đắc, thì bất kỳ những gì là sai trái, chúng ta đã buông bỏ hết rồi; bất kỳ điều gì là ích lợi, chúng ta đều đã phát triển. Một khi chứng đắc, chúng ta kinh nghiệm một cảm giác an lạc. Bất kể người khác nói gì, chúng ta biết mình, chúng ta bình thản. Ở đâu, chúng ta cũng tự tại.

Những vị tăng trẻ mới tu có thể nghĩ rằng dường như vị cao tăng không đi kinh hành hay ngồi thiền nhiều cho lắm. Đừng bắt chước ông ta về điều này. Bạn nên noi gương, nhưng đừng bắt chước. Noi gương là một việc, bắt chước là một việc khác. Vị cao tăng an trụ trong trú xứ an lạc của riêng ông. Dầu bề ngoài ông có vẻ như không tu hành gì cả, ông tu hành ở bên trong. Những gì trong tâm ông không thể nhận biết được bằng mắt. Tu hành theo Đạo Phật là tu tâm. Dầu rằng sự tu hành không lộ rõ trong hành động và lời nói của ông, tâm ông là một thứ khác.

Cho nên, một vị thầy đã tu hành lâu năm, đã đi xa trên đường Đạo, có thể có vẻ như phóng túng trong hành động và lời nói của mình, nhưng ông luôn cảnh giác. Ông bình thản. Chỉ nhìn vào những hành động bên ngoài của ông ấy thôi, rồi bạn cố bắt chước ông, nói bất cứ những gì bạn muốn. Nhưng nó không giống nhau. Bạn không có cùng đẳng cấp với ông. Mặc dầu vị thầy có thể như chỉ ngồi quanh quẩn, ông không phóng dật. Ông sống trong thế gian nhưng không bị khuấy động bởi nó. Chúng ta không thể nhìn thấy điều này, cho nên đừng phán xét dựa vào dáng vẻ bên ngoài. Khi chúng ta nói hay hành động, tâm của chúng ta sẽ tương ứng với lời nói hay hành động đó. Nhưng một người đã tu hành đắc Đạo có thể làm hay nói một điều gì một cách nào đó, nhưng tâm của họ thì khác hẳn, bởi vì nó theo sát Phật Pháp và giới luật. Chẳng hạn, có lúc vị thầy nghiêm khắc với đệ tử của mình: lời nói của ông có thể gay gắt và phóng túng, hành động của ông thô lỗ. Nhưng tất cả những gì chúng ta nhìn thấy chỉ là những biểu hiện bên ngoài. Chúng ta không nhìn thấy cái tâm không rời Phật Pháp và giới luật của ông.

Hãy làm theo sự chỉ dẫn của Đức Phật, “Chánh niệm là con đường dẫn đến sự sống vĩnh hằng”. Hãy suy ngẫm điều này. Bất cứ những gì người khác làm không phải là quan trọng, chỉ nhớ đừng buông lung. Hãy hiểu rằng chữ tỳ kheo, theo định nghĩa của Đức Phật, là “người nhìn thấy hiểm họa của sự luân hồi”.

Kẻ nhìn thấy hiểm họa của sự luân hồi là kẻ nhìn thấy những sự sai lầm, bản chất của thế gian. Thế giới này có quá nhiều hiểm họa, nhưng đa số người không nhìn thấy nó, họ chỉ nhìn thấy những sự khoái lạc và hạnh phúc. Luân hồi là gì? Nỗi khổ của sự luân hồi thì khôn tả xiết, không thể tưởng tượng được. Hạnh phúc cũng là luân hồi. Nếu chúng ta không nhìn thấy hiểm họa của sự luân hồi, thì khi hạnh phúc đến, chúng ta bám chặt vào sự hạnh phúc và quên đi sự đau khổ. Chúng ta giống như một đứa trẻ không biết lửa là gì.

Nếu chúng ta hiểu sự tu hành là như vầy: “Tỳ kheo là kẻ nhìn thấy hiểm họa của sự luân hồi”- nếu sự hiểu biết này, sự giảng dạy này được khắc sâu vào người chúng ta, thì dầu là đi, đứng, nằm hay ngồi, ở bất cứ nơi nào, chúng ta đều sẽ thản nhiên. Chúng ta xem xét chính mình. Sự cảnh giác luôn luôn ở đó. Ngay cả khi đang ngồi yên thoải mái, chúng ta cũng cảm thấy như thế. Bất kể chúng ta làm gì, chúng ta đều nhìn thấy hiểm họa này, cho nên chúng ta luôn ở trong một trạng thái tâm thức khác hẳn.

Kẻ nhìn thấy hiểm họa của sự luân hồi sống trong sự luân hồi mà cũng như không sống ở trong đó. Có nghĩa là, họ hiểu quan niệm đó và họ hiểu tính siêu việt của nó. Bất cứ những gì một người như thế nói ra cũng không giống những gì một người phàm nói. Bất cứ họ làm gì cũng không giống nhau. Bất cứ họ nghĩ gì cũng không giống nhau. Cách ứng xử của họ cũng khôn ngoan hơn rất nhiều.

Cho nên có câu nói: “Noi gương nhưng đừng bắt chước”. Kẻ ngu bám chặt vào mọi thứ. Bạn không nên làm thế! Đừng quên mất chính mình.

Về phần tôi, bởi thân thể tôi không khỏe cho lắm, tôi sẽ để những vị tăng khác chăm sóc một vài việc cho tôi. Có lẽ tôi sẽ nghỉ ngơi một thời gian. Từ trước đến nay là như vậy rồi: chừng nào cha mẹ còn sống, con cái đều khỏe mạnh và tốt đẹp. Khi cha mẹ chết, con cái chia lìa. Lúc trước chúng giàu có, nay thì nghèo. Điều này thường xảy ra trong đời sống thế tục, và nó cũng xảy ra ở đây. Ví dụ, khi vị thầy còn sống, mọi người đều vui vẻ và tiến bộ. Ông vừa qua đời là sự suy thoái bắt đầu ngay lập tức. Tại sao vậy? Bởi vì khi vị thầy còn sống, người ta cảm thấy tự mãn và họ quên đi chính mình. Họ không thật sự nỗ lực với sự học hỏi và tu hành.

Như trong đời sống thế tục, khi cha mẹ còn sống, con cái phó thác mọi việc cho cha mẹ. Chúng dựa vào cha mẹ chúng và không biết cách chăm sóc cho chính mình. Khi cha mẹ chết, chúng trở thành những người ăn mày. Trong đời sống xuất gia, nó cũng vậy. Nếu vị thầy đi khỏi hay chết, điều gần như luôn luôn xảy ra là các vị tăng sẽ giao tiếp nhiều hơn, chia phe phái, và suy thoái dần. Sống dựa vào công đức của vị thầy, mọi việc đều trôi chảy. Khi vị thầy qua đời, các đệ tử thường chia rẽ. Quan điểm xung đột. Những người nghĩ sai sống ở một nơi, những người nghĩ đúng sống ở một nơi khác.
Những người cảm thấy bất an rời bỏ đoàn thể, dựng lên tu viện mới, và thiết lập tông phái mới với nhóm đệ tử của riêng họ. Nó là như vậy đó. Lỗi là ở chúng ta. Khi vị thầy còn sống, chúng ta thiếu cảnh giác, chúng ta không đem những tiêu chuẩn tu hành mà vị thầy dạy dỗ và ghi khắc chúng vào tâm của mình.

Sự tu hành của chúng ta là như vầy. Chẳng hạn, nếu trong số những người xuất gia ở đây, chỉ có mười người tu hành tốt, thì Wat Pah Pong sẽ hưng thịnh. Giống như trong ngôi làng có một trăm căn nhà, dầu chỉ có 50 người tốt thôi, ngôi làng đó cũng sẽ thịnh vượng. Thật ra, tìm được mười người tốt thôi cũng đã khó lắm rồi. Còn với một tu viện như nơi này, khó mà tìm được ngay cả năm hay sáu vị tăng thật sự thành tâm, thật sự tu hành.

Dầu sao đi nữa, bổn phận duy nhất của chúng ta bây giờ là tu hành cho tốt. Thử nghĩ đi, chúng ta có được gì ở đây? Chúng ta không có của cải, tài sản, và gia đình nữa. Ngay cả thức ăn, chúng ta cũng chỉ ăn mỗi ngày một bữa. Là một người xuất gia, chúng ta xả bỏ mọi thứ. Chúng ta không nắm giữ một thứ gì. Tất cả những thứ mà người đời hưởng thụ chúng ta đều dứt bỏ. Chúng ta xuất gia là để tu hành. Vậy thì tại sao chúng ta lại thèm khát những thứ khác, dính mắc vào sự tham lam, oán thù, hay tà kiến?

Nếu chúng ta không tu hành, thì còn tệ hơn những người tại gia, bởi chúng ta không có chức phận gì cả. Nếu chúng ta không làm công việc gì hay nhận lãnh trách nhiệm của mình, thì đó là sự lãng phí một đời sa môn.

Sống mà không tỉnh giác thì cũng như chết. Hãy tự hỏi mình, “Tôi có thời gian để tu hành khi tôi chết không?” Hãy luôn tự hỏi, “Khi nào mình chết?” Nếu chúng ta nghĩ như thế mãi, tâm của chúng ta sẽ luôn tỉnh giác. Khi có sự tỉnh giác liên tục, chánh niệm sẽ tự động theo sau. Trí huệ sẽ sáng tỏ, và chúng ta nhìn thấy bản chất thật của mọi vật. Sự tỉnh giác sẽ canh gác tâm, nhận biết sự nảy sinh của cảm xúc vào mọi lúc, ngày lẫn đêm. Đó gọi là có chánh niệm. Có chánh niệm là có sự tỉnh giác liên tục. Một người luôn tỉnh giác là người tu hành đúng cách. Đây là bổn phận của chúng ta.


Chương 8 

Tại sao chúng ta ở đây?


“Tại sao tôi sinh ra? Tôi có thể 
mang theo với minh những gì?
Hãy tự hỏi mình như thế 
từ sáng cho đến tối.
Nếu bạn làm thế, bạn sẽ 
sáng suốt hơn, khôn ngoan hơn.
Nếu không, bạn sẽ mãi mê mờ.


Kỳ kiết hạ này, tôi không khỏe lắm, nên tôi lên ngọn núi này để hít thở không khí trong lành. Người ta tới viếng thăm, nhưng tôi không thể đón tiếp họ như lúc trước, bởi vì tôi cảm thấy như hơi đã tàn, sức đã cạn. Thôi thì cứ coi như chúng ta có phước báu vì vẫn còn thân thể này ngồi đây cho các bạn nhìn. Không bao nữa, bạn sẽ không thấy nó nữa. Hơi thở sẽ ngừng, tiếng nói sẽ dứt. Đức Phật gọi đó là sự hoại diệt của mọi hiện tượng nhân duyên.

Chúng ta hoại diệt như thế nào? Hãy nhìn một cục nước đá. Lúc đầu nó chỉ là nước. Bạn làm nó đông lại và nó trở thành nước đá. Nhưng không bao lâu thì nó tan chảy. Ngay cả một tảng nước đá lớn, nếu bạn để nó ngoài trời nắng, bạn có thể nhận thấy rằng nó tan rã ra giống như thân thể con người. Nó sẽ tan rã dần dần. Chỉ vài giờ hay có thể chỉ vài phút sau, thì tất cả những gì còn lại sẽ là một vũng nước. Đây gọi là sự hoại diệt của các pháp hữu vi. Từ thời nguyên thủy nó đã là như vậy rồi. Khi chúng ta sinh ra, chúng ta mang theo bản chất cố hữu này vào thế giới với chúng ta. Chúng ta không thể trốn tránh nó. Từ lúc sinh ra, chúng ta mang theo sự già nua bệnh tật và chết chóc với chúng ta.

Đó là tại sao Đức Phật nói đến sự hoại diệt của các pháp hữu vi. Tất cả chúng ta ngồi đây trong căn phòng này hôm nay, chư tăng, ni, thiện nam, tín nữ, điều là những tảng thịt đang tan rã. Ngay bây giờ, tảng thịt đó cứng chắc, như tảng nước đá. Nguyên thủy nó là nước; nó trở thành nước đá một thời gian, và rồi tan chảy thành nước trở lại. Bạn có nhìn thấy sự hư hoại chính mình không? Hãy nhìn vào thân thể này. Nó già thêm mỗi ngày - tóc già đi, móng tay già đi, mọi thứ đều đang già đi.

Bạn sẽ không như vậy mãi, có đúng không? Có một lúc bạn nhỏ bé hơn bây giờ rất nhiều. Giờ đây, bạn đã lớn và trưởng thành. Từ giờ trở đi, bạn sẽ hư hoại dần, theo định luật thiên nhiên. Thân thể tan rã, giống như tảng nước đá vậy. Không bao lâu, sẽ không còn gì nữa. Thân thể được tạo thành bởi tứ đại - đất, nước, gió, lửa - một tập hợp mà chúng ta gọi là một con người. Chúng ta yêu thích nó, gọi nó là một người nam hay một người nữ, rồi đặt tên cho nó, ông gì đó, bà gì đó, v.v..., để chúng ta có thể nhận diện mỗi người dễ dàng hơn. Nhưng thật sự thì không có ai ở đó cả. Chỉ có đất, nước, gió và lửa mà thôi. Khi chúng ta tập hợp lại trong hình dáng này, chúng ta gọi cái kết quả đó là một người. Nhưng đừng vội mừng. Nếu bạn xem xét nó cho kỹ, thì sẽ thấy không có ai ở đó.

Những thứ rắn chắc trong cơ thể như thịt, da, xương, v.v... được gọi là nguyên tố đất. Những phần chất lỏng là nguyên tố nước. Những tính năng có sức nóng trong cơ thể là nguyên tố lửa, và những luồng khí luân lưu xuyên suốt cơ thể là nguyên tố gió.

Tại Wat Pah Pong, chúng ta có một thân thể mà không có vẻ là nam hay nữ. Đó là một bộ xương đang treo lủng lẳng trong chánh điện. Nhìn nó, bạn không có cảm giác rằng nó là một người nam hay một người nữ. Người ta hỏi nhau không biết nó là nam hay nữ, và không ai trả lời được. Nó chỉ là một bộ xương. Tất cả da và thịt đều đã mất.

Người ta không hiểu được những điều này. Có người tới Wat Pah Pong, đi vào chánh điện, nhìn thấy bộ xương, thì chạy một mạch ra ngoài! Họ không muốn nhìn thấy nó. Họ sợ những bộ xương. Tôi nghĩ những người này chưa bao giờ nhìn thấy chính mình. Họ cần phải suy ngẫm về cái công dụng lớn lao của một bộ xương. Để tới tu viện này, họ phải đi xe hay đi bộ. Nếu họ không có xương, làm sao họ di chuyển tới lui được? Họ có thể đi bộ được không? Nhưng họ lái xe tới Wat Pah Pong, đi bộ vào chánh điện, nhìn thấy bộ xương, thì bỏ chạy ra ngoài! Họ chưa bao giờ nhìn thấy một thứ như thế. Họ sinh ra với nó, thế nhưng họ chưa bao giờ nhìn thấy nó. Cho nên, thật là may mắn là họ có cơ hội nhìn thấy nó bấy giờ. Ngay cả người già nhìn thấy bộ xương cũng hoảng sợ. Tại sao vậy? Điều này cho thấy rằng họ chưa nhận biết chính mình, họ không thật sự biết chính mình. Có thể khi về nhà, họ sẽ mất ngủ vài ba ngày... Nhưng họ đang ngủ với một bộ xương! Họ mặc áo quần cho nó, ăn uống với nó, làm mọi thứ với nó, nhưng họ sợ nó.

Thật là tội nghiệp cho những người không biết gì về chính mình! Họ luôn nhìn vào bên ngoài, nhìn cây cỏ, nhìn người khác, nhìn vật khác, rồi bình luận, “Cái này lớn,” “cái đó nhỏ,” “cái kia ngắn,” “cái nọ dài”. Họ quá bận rộn nhìn những thứ khác, nên chẳng bao giờ nhìn thấy chính mình. Con người thật là đáng thương. Họ không có nơi trú ẩn.

Trong những buổi lễ thọ giới, người thọ pháp phải học năm đề mục căn bản: tóc, lông, móng tay, răng, da. Vài người thuộc tầng lớp trí thức cười thầm khi họ nghe tới phần này. “Vị pháp sư này đang tính dạy chúng ta điều gì đây?” Dạy chúng ta về tóc khi chúng ta đã có nó vài chục năm nay rồi. Tại sao ông ta phải dạy dỗ những ta những điều mà chúng ta đã biết?” Những người vô minh là vậy đó. Họ cho rằng họ đã có thể nhìn thấy tóc. Tôi bảo họ rằng khi tôi nói. “nhìn thấy tóc,” có nghĩa là nhìn thấy bản chất thật của nó. Nhìn thấy thật chất của sợi lông, của móng tay, răng, và da. Đó là điều mà tôi gọi là “nhìn thấy” - không phải nhìn một cách hời hợt, nhưng nhìn đúng với sự thật. Chúng ta đã chẳng chìm đắm đến thế nếu chúng ta có thể nhìn thấy thực chất của chúng. Tóc, móng tay, răng, da - chúng thật sự là gì? Chúng có xinh đẹp không? Chúng có sạch sẽ không? Chúng có thực chất không? Chúng có ổn định không? Không, chúng chẳng là gì cả. Chúng không xinh đẹp, không có thực chất, nhưng chúng ta tưởng tượng ra chúng là như thế.

Tóc, móng tay, răng, và da - con người thật sự bám chặt vào những thứ này. Đức Phật lấy các phần này trên cơ thể làm những đề mục niệm căn bản. Ngài dạy chúng ta nhận biết chúng. Chúng tạm bợ, bất toàn vô chủ. Chúng không thuộc về “tôi” hay “của tôi”. Chúng ta sinh ra với chúng và bị chúng đánh lừa, nhưng chúng thật sự là hôi thối. Giả sử chúng ta không tắm chừng một tuần lễ, chúng ta có thể ngồi cạnh nhau nổi không? Chúng ta thật sự hôi lắm. Khi người ta đổ mồ hôi nhiều, chẳng hạn như khi nhiều người cùng làm việc cực nhọc, mùi của họ càng khó ngửi hơn. Chúng ta về nhà, tắm với nước và xà phòng, thì mùi hôi giảm bớt đôi chút. Mùi thơm của xà phòng thay thế vào đó. Xoa xà phòng lên người có thể khiến cho nó có vẻ thơm tho, nhưng sự thật thì cái mùi hôi của thân thể vẫn còn đó, chỉ tạm thời bị đè nén thôi. Khi mùi xà phòng bay hết, mùi hôi của thân thể sẽ trở lại.

Chúng ta thường nghĩ rằng thân thể này là xinh đẹp, thú vị, lâu bền và mạnh mẽ. Chúng ta thường nghĩ rằng chúng ta sẽ chẳng bao giờ già nua, bệnh tật, hay chết. Chúng ta bị mê hoặc và bị lừa, và rồi chúng ta không biết gì về nơi trú ẩn thật sự bên trong chúng ta. Nơi trú ẩn thật sự là tâm. Chánh điện mà chúng ta ngồi đây có thể rất lớn, nhưng nó không phải là nơi trú ẩn thật sự. Chim bồ câu ẩn nấu nơi đây cùng với những con thằn lằn và tắc kè. Chúng ta có thể cho rằng chánh điện này thuộc về chúng ta, nhưng không. Chúng ta sống ở đây cùng với mọi thứ khác. Đây chỉ là một nơi ẩn náu tạm thời, và không sớm thì muộn chúng ta phải rời bỏ nó. Người ta nhầm lẫn, họ xem những nơi như thế này là trú xứ thật sự.

Cho nên Đức Phật mới bảo bạn tìm kiếm trú xứ của mình, có nghĩa là tìm kiếm chân tâm của bạn. Cái tâm này rất quan trọng. Thường thì người ta không nhìn vào những điều quan trọng, họ dành phần lớn thời gian cho những thứ không quan trọng. Ví dụ, khi chùi dọn, họ có thể còng lưng xuống để quét sàn nhà, rửa chén bát, v.v..., nhưng họ không nhận biết tâm của chính mình. Tâm của họ có thể mục nát, họ có thể cảm thấy tức giận, và họ rửa chén với vẻ chua chát. Họ không nhận thấy rằng tâm họ không tinh khiết. Đây là cái mà tôi gọi là “lấy chỗ ở tạm làm nơi trú ẩn”. Họ làm đẹp căn nhà, nhưng họ không nghĩ đến việc làm đẹp chính tâm của họ. Họ không suy ngẫm về sự khổ. Đức Phật dạy chúng ta tìm kiếm nơi trú ẩn trong chính tâm của mình. Bạn có thể trú ẩn nơi người nào khác sao? Trú xứ thật là tâm, không nơi nào khác. Bạn có thể cố nương tựa vào những thứ khác, nhưng chúng không đáng tin cậy. Bạn chỉ có thể nương tựa vào những thứ khác nếu bạn đã sẵn có một nơi trú ẩn bên trong chính bạn rồi.

Cho nên, tất cả các bạn, xuất gia và tại gia, những người đến đây hôm nay, hãy suy ngẫm về điều này. Hãy tự hỏi mình, “Tôi là ai? Tại sao tôi ở đây? Tại sao tôi sinh ra?” Có người không biết. Họ muốn sống hạnh phúc, nhưng sự khổ không bao giờ ngừng nghỉ. Giàu hay nghèo, già hay trẻ, họ đều đau khổ. Toàn là đau khổ. Tại sao vậy? Bởi vì họ không có trí huệ. Người nghèo đau khổ vì họ không có đủ dùng, và người giàu đau khổ vì họ có quá nhiều.

Khi mới tu, có lần tôi giảng về sự phúc lạc của một đời sống giàu có với nhiều của cải và tôi tớ, v.v... - cả trăm tớ gái, hàng trăm tớ trai, một trăm con voi, một trăm con bò, một trăm con trâu, một trăm đủ thứ! Người ta nghe thế rất háo hức. Nhưng thử nghĩ đến việc coi sóc một trăm con trâu? Hay một trăm con bò, một trăm tớ trai và một trăm tớ gái? Bạn có thể tưởng tượng mình phải coi sóc tất cả những thứ đó không? Người ta không nhìn thấy khía cạnh này. Họ muốn có trâu, bò, tôi tớ... hàng trăm người. Nhưng tôi nói, chỉ năm mươi con trâu thôi cũng đã quá nhiều! Chỉ với việc bện dây thừng cho những con vật đó thôi cũng đã quá nhiều rồi! Nhưng người ta không nghĩ đến điều này. Họ chỉ nghĩ đến sự sung sướng của việc sở hữu đồ vật. Họ không nghĩ đến sự phiền phức đi kèm theo đó.

Nếu chúng ta không có trí huệ, mọi thứ chung quanh chúng ta đều sẽ là nguồn gốc của sự khổ. Nếu chúng ta khôn ngoan, những thứ này sẽ mang chúng ta ra khỏi khổ đau. Mặt, tai, mũi, lưỡi, thân, và tâm... Mắt không nhất thiết là điều tốt, bạn biết mà. Nếu bạn đang buồn phiền, chỉ nhìn thấy người khác thôi có thể làm cho bạn tức giận và mất ngủ. Hay bạn có thể đang yêu. Yêu cũng là đau khổ, nếu bạn không đạt được điều mình muốn. Tình yêu và hận thù đều là đau khổ, bởi vì có sự ham muốn. Muốn là đau khổ. Muốn không có một thứ gì cũng là đau khổ. Muốn đạt được điều gì - ngay cả khi bạn đã đạt được nó, bạn vẫn đau khổ, bởi vì bạn sẽ sợ mất nó. Chỉ toàn là đau khổ. Làm sao bạn có thể sống với những thứ đó? Bạn có thể có một căn nhà rộng lớn, sang trọng, nhưng nếu tâm bạn không tốt, sự việc sẽ chẳng êm đẹp như bạn tưởng.

Bạn nên nhìn vào chính mình. Tại sao chúng ta lại sinh ra? Chúng ta có thật sự đạt được một thứ gì trên cõi đời này không? Ở quê, từ nhỏ người ta đã bắt đầu làm ruộng. Khi đến tuổi mười bảy hay mười tám, họ vội vã lập gia đình, vì e rằng họ không có đủ thời gian để lập nghiệp. Họ bắt đầu làm việc từ lúc còn rất trẻ, hy vọng rằng họ sẽ giàu có. Họ làm ruộng mãi cho đến khi họ bảy mươi, tám mươi, hay chín mươi tuổi. Tôi hỏi họ, “Bạn làm việc từ lúc mới sinh ra. Bây giờ đã đến lúc gần đất xa trời, bạn có gì để mang theo với mình không?”Họ chỉ nói, “Chịu thôi!” Có câu nói: “Đừng nấn ná trên đường đi hái dâu. Trước khi bạn biết ra, thì trời đã tối”. Hài lòng với chỉ một câu “chịu thôi,” họ ngồi trong bụi dâu ngốn ngáo ăn. “Chịu thôi, chịu thôi...”.

Khi bạn còn trẻ, bạn cho rằng sống độc thân là không tốt. Bạn cảm thấy hơi cô đơn. Nên bạn tìm một người bạn đời để chung sống. Bỏ hai người vào một chỗ thì sẽ có sự xung đột! Sống một mình thì quá yên lặng, nhưng sống với những người khác thì có sự xung đột.

Khi con cái còn nhỏ, cha mẹ nghĩ, “Khi chúng lớn lên, chúng ta sẽ khỏe hơn”. Họ ráng nuôi con, ba, bốn, năm đứa gì đó, nghĩ rằng khi chúng khôn lớn, gánh nặng của họ sẽ nhẹ bớt. Nhưng khi chúng lớn lên, gánh nặng lại càng lớn hơn. Khi con cái còn nhỏ, chúng không làm phiền bạn nhiều lắm, chỉ một chén cơm và thỉnh thoảng một vài trái chuối là đủ. Khi chúng lớn lên, chúng muốn có xe gắn máy hay xe hơi! Hẳn nhiên, bạn thương con, nên không thể từ chối chúng. Thế nên, bạn cố cho chúng những gì chúng muốn. Phiền phức rồi. Đôi lúc cha mẹ cãi vã nhau chỉ vì chuyện này. “Đừng mua xe hơi cho nó, chúng ta đâu có đủ tiền!” Nhưng vì thương con, bạn đi vay mượn tiền. Rồi còn học phí nữa. “Khi chúng học xong, chúng ta sẽ khỏe”. Nhưng việc học đâu có giới hạn! Khi nào chúng mới học xong? Chỉ với môn học Phật Pháp thì mới có điểm dừng. Tất cả những môn học khác chẳng đi tới đâu. Chỉ có nhức đầu mà thôi. Nếu gia đình có bốn, năm đứa con, cha mẹ thường cãi nhau mỗi ngày.

Chúng ta không nhìn thấy sự khổ đang chờ đợi chúng ta. Chúng ta nghĩ rằng nó sẽ chẳng bao giờ xảy ra. Khi nó xảy ra, chúng ta mới biết. Sự khổ đó, sự khổ vốn có trong thân thể chúng ta thì khó thấy trước được. Khi tôi còn là một đứa trẻ chăn trâu, tôi lấy than chà răng để cho răng trắng. Nhìn thấy hàm răng trắng trẻo của mình, tôi rất thích. Tôi bị mấy cái xương của mình lừa gạt mình, chỉ vậy thôi. Khoảng năm mươi hay sáu mươi tuổi, răng tôi bắt đầu lỏng dần. Khi răng rụng, nó đau nhức lắm, như thể bạn vừa bị ai đá trúng vào miệng. Nhất là khi bạn ăn, nó lại càng đau hơn. Cho nên tôi đi đến nha sĩ để nhổ hết tất cả. Bây giờ tôi có răng giả. Răng thật gây quá nhiều phiền phức cho tôi, nên tôi nhổ chúng hết, tất cả mười sáu cái. Vị nha sĩ cảm thấy e ngại khi phải nhổ hết mười sáu cái một lần, nhưng tôi nói với ông, “Cứ nhổ hết đi, tôi sẽ chịu trách nhiệm”. Thế nên ông nhổ hết tất cả một lần. Có cái vẫn còn tốt, ít nhất là năm cái. Lấy chúng ra hết. Sau đó, tôi không thể ăn uống gì được đến mấy ngày.

Khi còn là đứa trẻ chăn trâu, tôi nghĩ rằng đánh bóng hàm răng của mình là một việc khôn ngoan. Tôi rất thích những cái răng của mình. Tôi nghĩ rằng chúng rất đẹp. Nhưng có những lúc tôi bị nhức răng đến chết được. Có khi tôi bị đau răng cả tháng trời, và nướu răng sưng lớn lên.

Tôi chỉ muốn bạn biết về những điều này, về sự khổ phát sinh từ bên trong thân thể chúng ta. Không có gì bên trong thân thể này mà bạn có thể tin cậy được. Nó không tệ lắm khi bạn còn trẻ, nhưng khi bạn già, mọi thứ bắt đầu hư hao. Mọi thứ bắt đầu tan rã. Không có một kiến thức nào hay khoa học nào có thể thay đổi quy luật thiên nhiên này. Bạn có thể nhờ một nha sĩ xem xét hàm răng của mình, những dầu ông có sửa chữa được đi nữa, thì cũng sẽ có một ngày chúng cũng đi tới đoạn kết. Cuối cùng, ngay cả vị nha sĩ cũng có vấn đề. Mọi thứ tan rã vào lúc cuối.

Đây là những thứ mà chúng ta nên suy ngẫm khi chúng ta vẫn còn nhuệ khí. Chúng ta nên tu hành khi còn trẻ. Nếu bạn muốn làm phước báu, hãy làm nhanh lên. Đừng để việc đó cho những người già. Đa số người đợi cho đến khi già nua rồi mới tìm tới tu viện để tu hành. Đàn ông và đàn bà cũng nói như nhau, “Để đến già đã”. Tôi không biết sao họ có thể nói như thế. Một người già có được bao nhiêu sức lực và nhuệ khí? Cứ thử để họ chạy đua với một người trẻ và nhìn thấy sự khác biệt lớn đến chừng nào. Họ đợi đến già cứ như thể họ không bao giờ chết. Khi đến tuổi năm mươi hay sáu mươi, rồi thì, “Bà nội ơi! Chúng ta cùng đi chùa nhé!” “Con đi đi, tai bà nghe không rõ nữa”. Hiểu ý tôi không? Khi đã lãng tai, thì bà nghe thứ gì đây? “Chịu thôi!” Chỉ chơi với mấy bụi dâu mà thôi. Cuối cùng, khi tai hết nghe được, bà đi chùa. Chẳng còn hy vọng gì nữa. Bà lắng nghe buổi thuyết pháp nhưng chẳng hiểu họ nói gì. Người ta đợi đến khi hơi tàn, sức kiệt rồi mới nghĩ đến việc tu hành.

Đây là những thứ mà bạn nên bắt đầu quan sát. Chúng là gia tài của chúng ta. Chúng sẽ trở nên nặng nề hơn mỗi ngày, một gánh nặng đối với chúng ta. Trong quá khứ, chân tôi rất khỏe. Tôi có thể chạy. Bây giờ, ngay cả việc đi bộ quanh đây, tôi cũng thấy nặng nề. Trước kia, chân tôi mang vác tôi. Nay tôi phải mang vác chúng. Khi tôi còn nhỏ, tôi thấy người già đứng dậy từ chỗ ngồi của họ một cách khó khăn, đau đớn. Ngay cả đến lúc đó, họ vẫn chưa muốn học. Lúc ngồi xuống, họ rên rỉ, “Ái da!” Đứng dậy họ rên rỉ, “Ái da!” Luôn luôn “Ái da”. Nhưng họ không biết điều gì khiến họ phải rên rỉ. Ngay cả khi đó, họ vẫn không nhìn thấy sự suy sụp của thân thể. Bạn không bao giờ biết khi nào bạn lìa bỏ nó. Sự đau nhức chỉ là những diễn tiến tự nhiên. Người ta gọi đó là chứng viêm khớp, sỏi mật, thấp khớp, v.v... và vị y sĩ kê toa thuốc, nhưng cơ thể chẳng bao giờ lành lặn hoàn toàn. Cuối cùng nó vẫn sẽ đi đến một kết thúc mà ngay cả vị y sĩ cũng không thể tránh được! Đây là sự diễn biến tự nhiên của các nhân duyên. Đó là đường lối của chúng, bản chất của chúng.

Thử xem xét điều này. Nếu bạn nhận ra điều này thì tốt cho bạn, giống như nhìn thấy một con rắn độc trên đường từ xa. Nếu nhìn thấy nó, bạn có thể đi tránh qua một bên để không bị nó cắn. Nếu không nhìn thấy nó, bạn có thể giẫm lên nó.

Khi gặp chuyện đau khổ, người ta không biết phải làm gì. Đi đâu để giải quyết nó đây? Họ muốn lẩn tránh sự khổ, muốn thoát khổ, nhưng không biết phải làm sao để đối phó với nó. Và cứ thế họ sống cho đến khi già nua, bệnh hoạn... rồi chết.

Lúc xưa khi có người bị bệnh sắp chết, một trong những thân quyến của họ sẽ thì thầm chữ Phật Phật trong tai họ. Họ làm gì với Phật lúc này? Chữ Phật còn lợi ích gì khi họ sắp lên giàn hoả thiêu? Khi hơi thở của họ đã bị đứt quãng, bạn đến nói với họ, “Mẹ ơi! Phật, Phật!” Đừng lãng phí thời gian làm gì. Bạn chỉ làm cho bà ấy rối loạn. Hãy để bà ta ra đi yên ổn.

Khi mới kết hôn, người ta thường chấp nhận nhau, nhưng về già, họ lại không hiểu nhau. Nhiều khi người vợ nói gì, người chồng cũng thấy bực bội, người chồng nói gì, người vợ cũng không muốn nghe. Họ quay lưng lại với nhau.

Không phải tôi nói thế bởi vì tôi không có gia đình. Tại sao tôi không lập gia đình? Chỉ nghe hai chữ kết hôn thôi, tôi đã biết nó sẽ là gì rồi. Kết là kết chặt lại. Giả sử có người lấy một sợi dây thừng và cột bạn lại trong khi bạn đang ngồi đây, bạn cảm thấy thế nào? Đó gọi là “bị kết chặt”. Có một cái vòng trói buộc. Người đàn ông sống trong cái vòng trói buộc của ông ấy, và người đàn bà sống trong cái vòng trói buộc của bà ấy.

Hãy suy ngẫm cho kỹ. Nếu bạn vẫn chưa nhận ra điều này ngay bây giờ, bạn có thể nhận biết sau này. Có người đã nhận ra một phần nào. Những người khác đã hết phương kế. “Mình nên ở lại hay nên đi đây?” Tại Wat Pah Pong, có khoảng bảy mươi hay tám mươi cái chòi tranh. Tôi thường bảo vị sư trưởng giữ lại một vài cái chòi trống, trong trường hợp có người cãi vã với vợ hay chồng của mình. Quả thật, chẳng bao lâu thì có người một phụ nữ khăn gói đến xin xuất gia. “Tôi chán thế giới này lắm rồi, Luang Por”. “Ồ! Đừng nói thế. Những chữ đó nặng nề quá”. Rồi người chồng đến và nói rằng ông cũng chán. Nhưng sau vài ba ngày trong tu viện, sự chán-ngán-thế-gian của họ biến mất.

Thật ra, họ chỉ đang lừa gạt chính mình. Sau khi ngồi yên tĩnh một hồi trong chòi, họ bắt đầu suy nghĩ,

“Không biết khi nào bà ta mới đến đây năn nỉ mình về nhà nhỉ?”

Họ không thật sự biết điều gì đang xảy ra. Cái chán-thế-giới-này của họ là gì thế? Họ tức giận một điều gì đó và chạy đến tu viện. Ở nhà mọi thứ đều sai cả, người chồng sai, người vợ sai. Nhưng sau ba ngày yên lặng, họ suy nghĩ,

“Hừm, vợ mình nói cũng đúng, mình sai thật,” hay “Chồng mình đúng, mình không nên tức giận như thế”.

Họ thay đổi lập trường. Nó là như thế đó. Đó là tại sao tôi không quá quan tâm đối với những việc thế gian. Tôi biết nó rất rõ, cho nên tôi chọn đời sống xuất gia.

Đây là bài tập của bạn. Dầu bạn làm ruộng ngoài đồng hay làm việc trong công sở, hãy suy ngẫm những lời sau. Hãy tự hỏi, “Tại sao tôi sinh ra? Tôi có thể mang theo với mình những gì?” Hãy tự hỏi mình như thế từ sáng đến tối. Nếu bạn làm thế, bạn sẽ sáng suốt hơn, khôn ngoan hơn. Nếu không, bạn sẽ mê mờ mãi. Nếu bạn không hiểu rõ lúc này, có thể sau này bạn sẽ hiểu. “Ồ, thì ra đó điều mà Luang Por muốn nói. Vậy mà lúc trước mình không hiểu”.

Tôi nghĩ rằng như vậy là đủ cho ngày hôm nay. Nếu tôi nói lâu hơn nữa, thân thể già nua này sẽ mỏi mệt.


Chương 9

Cơn lũ dục vọng


Đức Phật nói, “Bất cứ thứ gì 
bạn có, đừng có nó”.
Hãy để nó ở đó, nhưng đừng 
làm cho nó trở thành của bạn.


Cơn lũ dục vọng: chìm đắm trong cảnh sắc, trong thinh âm, trong mùi vị, trong khoái lạc nhục dục. Chìm đắm bởi vì chúng ta chỉ nhìn vào bên ngoài, mà không nhìn vào trong. Người ta không nhìn thấy chính mình, mà chỉ lo nhìn những người khác. Mọi người khác, họ đều có thể thấy, nhưng chính họ thì không. Nhưng có gì khó khăn đâu. Chỉ là người ta không thật sự cố gắng.

Ví dụ, nhìn một phụ nữ xinh đẹp. Điều gì đang xảy ra vậy? Nhìn thấy một phụ nữ cho bạn cảm giác gì? Vừa nhìn thấy khuôn mặt là bạn nhìn thấy mọi thứ khác. Bạn hiểu tôi nói gì chứ? Cặp mắt chỉ nhìn một chút thôi, thì tâm đã nhìn thấy những phần còn lại. Tại sao nhanh như thế?

Đó là bởi vì bạn chìm đắm trong cơn lũ. Bạn kẹt trong sự suy nghĩ và trí tưởng tượng của bạn, giống như kẻ nô lệ đang bị một người khác điều khiển. Khi họ bảo ngồi, bạn phải ngồi; khi họ bảo đi, bạn phải đi. Bạn không thể trái lời họ bởi vì bạn là nô lệ của họ. Bị nô lệ cho lục căn cũng vậy đó. Bất kể bạn cố gắng bao nhiêu, bạn dường như không thể dứt bỏ nó. Và nếu bạn trông đợi người khác dứt bỏ nó cho bạn, bạn chỉ tạo phiền phức cho mình.

Cho nên, Đức Phật để chúng ta lựa chọn sự tu hành và thoát khổ. Chẳng hạn như niết bàn. Đức Phật đã hoàn toàn giác ngộ, tại sao Đức Phật không diễn tả niết bàn một cách chi tiết hơn? Tại sao Ngài bảo chúng ta tu hành và tự mình chứng ngộ? Có người bâng khuâng. “Nếu Đức Phật thật sự biết rõ điều đó,” họ lý luận, “Ngài đã nói cho chúng ta biết. Tại sao Ngài che giấu?”

Nghĩ như thế là sai. Chúng ta không thể nhận biết chân lý bằng cách này. Chúng ta phải tu tập, chúng ta phải huấn luyện, để có thể chứng ngộ. Đức Phật chỉ cho chúng ta biết cách phát triển trí huệ mà thôi. Ngài nói rằng chính chúng ta phải tự tu hành để đạt đến mục đích.

Nhưng Con Đường mà Đức Phật giảng dạy đi ngược lại những thói quen của chúng ta. Thanh đạm, kiềm thúc - nhưng chúng ta không thích điều đó. Cho nên chúng ta nói, “Hãy chỉ cho chúng tôi, hãy chỉ cho chúng tôi đường đến niết bàn, để chúng tôi có thể đi đến một cách dễ dàng”. Trí huệ cũng vậy. Đức Phật không thể chỉ cho chúng ta trí huệ; nó không phải là một thứ có thể phân phát. Đức Phật có thể chỉ cách phát triển trí huệ, nhưng phát triển được bao nhiêu trí huệ thì còn tùy thuộc vào mỗi người. Bởi vì phước báu và nghiệp quả của mọi người khác nhau, sự chứng ngộ, vì thế, có lúc nhanh, lúc chậm. Đức Phật và các đệ tử của Ngài đều tự mình tu hành, nhưng dầu vậy, họ vẫn dựa vào sự hướng dẫn và khuyên bảo của vì thầy trong quá trình tu tập.

Khi nghe pháp, có thể chúng ta muốn nghe cho đến khi không còn nghi ngờ, nhưng sự nghi ngờ không bao giờ chấm dứt chỉ với việc nghe pháp. Sự nghi ngờ không dứt bằng sự lắng nghe hay suy tư. Nghe pháp thôi không đưa tới sự chứng ngộ. Tuy nhiên, nghe pháp rất lợi ích. Vào thời Đức Phật, có người chứng ngộ - và đạt tới đẳng cấp A-la-hán - trong khi nghe thuyết pháp. Nhưng những người này, đẳng cấp của họ vốn đã cao rồi; họ vốn đã hiểu biết rất sâu. Giống như một quả bóng. Khi quả bóng được bơm hơi, nó căng phồng lên. Không khí bên trong ép vào thành quả bóng, nhưng không có lỗ để nó thoát ra. Chỉ cần lấy kim chích thủng trái banh, thì không khí lập tức tuôn ra ngoài.

Tâm của những đệ tử được khai ngộ khi nghe pháp thì cũng giống như quả bóng đó. Nó sẵn đã có cái ‘sức ép’ này ở bên trong. Nó chỉ chưa thoát ra vì còn có một bức thành mỏng ngăn che chân lý. Khi họ nghe pháp và nó gõ vào trúng chỗ, thì trí huệ phát sinh. Họ lập tức hiểu, lập tức xả bỏ và đắc đạo. Nó là vậy đó. Tâm thay đổi - từ cách nhìn này đến cách nhìn khác. Bạn có thể cho rằng nó còn xa, hay có thể nói rằng nó rất gần.

Đây là điều mà chúng ta phải tự làm cho mình. Đức Phật chỉ có thể cho chúng ta phương pháp để phát triển trí huệ. Vậy thì tại sao sau khi nghe pháp, chúng ta vẫn không thể liễu ngộ chân lý? Đó là bởi vì có một tấm màng ngăn che nó. Bạn có thể nói rằng chúng ta bị chìm đắm. Chìm đắm trong dục lạc. Chìm đắm trong vòng sinh tử. Dục vọng nảy sinh theo thanh sắc, mùi vị, cảm xúc, và tư tưởng. Đồng hóa với những thứ này, tâm bám chặt và bị kẹt vào dục lạc.

Những hành giả biếng nhác thường không nhớ đến đạo pháp. Thế nhưng khi bị rầy la, họ cứ nhớ mãi sự khiển trách đó. Họ có thể bị rầy la khi kỳ kiết hạ bắt đầu, và sau khi kỳ kiết hạ kết thúc, họ vẫn không quên chuyện đó. Chừng nào còn sống, họ vẫn không quên, nhất là khi khiển trách đó có tác động lớn đối với họ. Nhưng khi nói đến sự giảng dạy của Đức Phật - những việc như sự điều thân, kiềm thúc, tu tập chuyên cần, tại sao người ta không giữ mãi những điều này trong tâm? Tại sao họ cứ quên mãi? Cứ quan sát sự tu hành của chúng ta ở đây thì biết. Ví dụ, những giới luật như, sau khi ăn, trong khi rửa y bát, đừng trò chuyện! Ngay cả bấy nhiêu thôi mà người ta cũng không làm được. Mặc dầu chúng ta biết rằng tán gẫu không lợi ích gì, mà chỉ trói buộc chúng ta vào dục lạc ngũ trần, người ta vẫn thích nói. Không bao lâu, họ bắt đầu bất đồng ý kiến và cuối cùng thì tranh cãi và gây gổ.

Điều này không có gì là phức tạp và khó hiểu cả. Nó rất là cơ bản. Thế nhưng người ta có vẻ như không muốn cố gắng. Họ nói họ muốn được khai ngộ, nhưng họ muốn khai ngộ theo kiểu của họ; họ không muốn tu tập và rèn luyện bản thân. Tất cả những giới luật tu hành đều là những phương tiện khéo léo để giúp hành giả thấu suốt và chứng đạo, nhưng người ta không chịu tuân thủ.

“Sự tu hành chân chánh” hay “ sự tu hành thành tâm” không nhất thiết có nghĩa là bạn phải hao tổn rất nhiều năng lượng - chỉ bỏ ra chút nỗ lực trong tâm, phấn đấu một chút với những cảm xúc phát sinh, nhất là những cảm xúc nặng nề về dục lạc. Chúng ta là kẻ thù của chúng ta.

Nhưng hình như người ta không thể làm thế. Năm nào cũng vậy, càng gần đến cuối kỳ kiết hạ, thì tình trạng càng trở nên tệ hại. Có người dường như hết muốn chịu nổi. Càng gần đến lúc cuối, họ lại càng giải đãi, phóng dật. Năm nào tôi cũng nói về điều này, nhưng họ vẫn không nhớ. Chúng tôi có đưa ra một số quy định, nhưng chưa tới một năm thì không ai chấp hành cả. Những cuộc trò chuyện vô bổ lại bắt đầu. Sự tu hành thoái bộ. Thường là như vậy đó.

Những người thật sự muốn tu hành nên suy ngẫm về kết quả bất lợi của những điều này. Khi chúng ta được thâu nhận vào hàng ngũ xuất gia, chúng ta sống giản dị. Thế nhưng có vài người đã hoàn tục để đi ra chiến trường, nơi súng đạn bay vèo vèo mỗi ngày - họ thích như thế. Họ thật sự muốn đi lính. Họ không thấy nguy hiểm sao? Họ sẵn sàng chết vì bom đạn, nhưng không ai muốn chết để phát triển đức hạnh. Đó là bởi vì họ là những kẻ nô lệ. Họ không nhìn thấy sự nguy hiểm.

Thật là lạ! Bạn nghĩ rằng họ có thể nhận ra điều đó, nhưng không. Nếu đến lúc đó mà họ vẫn chưa nhận thấy thì họ thật là hết hy vọng. Họ quyết định ở lại trong guồng máy sinh tử luân hồi. Sự việc là như thế đó.

Nếu bạn hỏi họ, “Tại sao anh sinh ra?” có lẽ họ sẽ không trả lời được, bởi vì họ không nhận ra điều đó. Họ chìm đắm trong thế giới của lục căn, lục trần và chìm đắm trong sự trở thành (bhava). Bhava là phạm vi sinh khởi, nơi sinh của chúng ta. Nói ngắn gọn, chúng ta sinh ra từ đâu? Bhava là điều kiện tiên quyết cho sự sinh khởi. Ở đâu có sự sinh khởi, thì ở đó là bhava.

Ví dụ, giả sử chúng ta có một vườn táo mà chúng ta rất thích. Đó là một bhava cho chúng ta nếu chúng ta không dùng trí huệ để quán xét. Tại sao thế? Giả sử vườn cây của chúng ta có một trăm hay một ngàn cây táo. Chừng nào chúng ta còn xem chúng là cây của chúng ta, chúng sẽ “sinh” vào trong mỗi cây đó - sinh ra làm con sâu, trong một ý nghĩa nào đó, bởi cái tâm -trở -thành đã chui vào mỗi cây táo đó; hay dầu cho thân thể con người của chúng ta vẫn còn đó trong căn nhà, nó vẫn như thể chúng ta đã gởi “xúc tu” vào mỗi cây đó.

Làm sao chúng ta biết rằng đó là bhava? Nó là bhava (phạm vi sinh khởi) bởi vì chúng ta bám chặt vào cái ý tưởng rằng những cây đó là của riêng chúng ta. Nếu có người lấy rìu chặt một trong những cây này xuống, chúng ta, ở trong nhà của mình, sẽ “chết” với cái cây đó. Chúng ta sẽ nổi nóng và phải xử lý vấn đề. Có thể chúng ta sẽ cãi lộn với người đó. Sự cãi vã đó là “sự sinh khởi”. Phạm vi sinh khởi là cái cây mà chúng ta bám vào như thế nó thuộc về chúng ta. Chúng ta “sinh ra” ngay tại nơi mà chúng ta cho rằng nó là của chúng ta.

Bất cứ thứ gì chúng ta bám víu vào, chúng ta sinh ra ở nơi đó; chúng ta hiện hữu ngay nơi đó. Chúng ta sinh ra ngay khi chúng ta “biết”. Đây là cái biết từ sự-không-biết: chúng ta biết rằng có người vừa đốn một trong những cái cây của chúng ta, nhưng chúng ta không biết rằng những cây đó không thật sự là của chúng ta. Đây gọi là “cái biết từ sự-không-biết”. Và rồi chúng ta sinh vào cái bhava đó.

Vatta, bánh xe luân hồi vận chuyển như thế này. Người ta bám chặt vào bhava; họ lệ thuộc vào bhava. Nếu họ ưa thích bhava, đây là một sự sinh khởi. Và nếu họ đau khổ về những thứ như thế, thì đây cũng là một thứ sinh khởi. Chừng nào chúng ta không xả bỏ, chúng ta sẽ còn kẹt trong vòng luân hồi. Hãy suy ngẫm về điều này. Bất cứ thứ gì chúng ta bám víu vào như thế đó là chính chúng ta hay của chúng ta, đó là một phạm vi sinh khởi.

Phải có một bhava, một phạm vi sinh khởi, trước khi sự sinh khởi có thể xảy ra. Do đó Đức Phật có nói, “Bất cứ thứ gì bạn có, đừng có nó”. Hãy để nó ở đó, nhưng đừng làm cho nó trở thành của bạn. Bạn phải hiểu sự có và không - có này; biết được bản chất của chúng. Đừng quanh quẩn trong sự đau khổ.

Nơi mà bạn sinh ra: bạn có muốn trở lại đó để được tái sinh không? Hãy suy ngẫm điều này. Càng gần đến cuối kỳ kiết hạn, chư tăng và thiền giả càng chuẩn bị để quay lại đời sống cũ và sinh ra ở đó.

Thật đó. Bạn cho rằng người ta thích sống trong bụng của một người khác sao? Thật khó chịu vô cùng! Thử nghĩ đi, chỉ ở trong chòi của bạn một ngày thôi, đóng hết các cửa ra vào và cửa sổ là bạn đã ngột thở rồi. Nếu như phải nằm trong bụng một người nào chín, mười tháng thì sẽ ra sao? Người ta không nhìn thấy cái giá của nó. Bạn có muốn trở lại trong bào thai đó không? Bạn đang tiếc nuối điều gì thế?

Đó là bhava. Cội rễ là ở đó. Mọi thứ xoay quanh đó. Đức Phật bảo chúng ta quán chiếu điểm này. Người ta nghĩ đến nó nhưng vẫn không nhận thấy nó. Mọi người đều chuẩn bị để trở lại nơi đó nữa. Họ biết rằng ở đó rất khó chịu, thế nhưng họ muốn đưa đầu vào đó, đặt cổ vào cái thòng lọng một lần nữa. Mặc dầu họ có thể biết rằng cái thòng lọng này rất là khó chịu, họ vẫn muốn đưa đầu vào đó. Tại sao họ không hiểu điều này chứ?

Khi tôi nói những chuyện này, người ta sẽ nói, “Nếu chúng là như vậy, thì mọi người sẽ phải cạo đầu đi tu cả, và rồi thế giới sẽ ra sao?” Bạn sẽ chẳng bao giờ có thể khiến cho mọi người đi tu, cho nên đừng lo.

Tôi trở thành một sa di vào lúc chín tuổi. Tôi bắt đầu tu hành từ lúc đó. Nhưng thời gian đó, tôi không biết gì cả về điều này. Tôi chỉ hiểu khi tôi trở thành một tỳ kheo. Khi là tỳ kheo, tôi rất cảnh giác. Những thú vui sắc dục mà người đời mê đắm không có vẻ gì vui thú đối với tôi. Tôi nhìn thấy sự đau khổ trong đó, như nhìn thấy chất độc bên trong một món ăn thơm ngon. Bất kể nó ngọt ngào hay hấp dẫn đến chừng nào, tôi biết rằng nếu tôi ăn nó vào tôi sẽ chết. Tôi luôn nghĩ như thế. Mỗi khi cảm thấy muốn “ăn món đó,” tôi nghĩ đến “chất độc” bên trong, và rồi tôi thu hồi sự ham muốn của mình. Tuy nhiên, ở tuổi này, những thứ đó không thể cám dỗ tôi nữa.

Có người không nhìn thấy chất độc. Có người nhìn thấy nó nhưng vẫn muốn thử thời vận. Nhưng họ nói, “Nếu bạn đã làm cho bàn tay mình bị thương, thì đừng đụng vào chất độc”.

Tôi cũng đã từng nghĩ đến việc thử cho biết. Có một lần, sau khi xuất gia khoảng năm, sáu năm, tôi nghĩ đến Đức Phật. Ngài tu hành năm, sáu năm và rồi đoạn tuyệt với đời sống thế tục, nhưng tôi vẫn còn ưa thích nó và nghĩ đến việc quay trở lại. Đời sống thế tục có thể giúp tôi có thêm kinh nghiệm và kiến thức. Ngay cả Đức Phật cũng có một đứa con trai là La - hầu - la mà. Có lẽ tôi quá khắt khe với mình?”

Tôi nghĩ đến việc này một thời gian, nhưng rồi tôi nhận ra, “Đúng, hay lắm, tất cả đều tốt cả, nhưng tôi chỉ sợ rằng vị “Phật’ này sẽ lún sâu trong bùn, không giống như vị Phật trước”. Và rồi tôi kháng cự những tư tưởng thế gian đó.

Từ kỳ kiết hạ thứ bảy đến kỳ thứ hai mươi, tôi thật sự đã đấu tranh rất nhiều. Thời gian này, tôi có cảm tưởng như mình đã kiệt lực, tôi đã vật lộn rất lâu. Những tăng sĩ và sa di trẻ tuổi vẫn còn rất nhiều nhuệ khí, họ có thể đi ra ngoài để thử sức mình. Nhưng trước khi làm thế, hãy suy nghĩ cẩn thận.

Nói đến dục lạc, ngũ trần, thật không dễ gì buông bỏ. Rất khó nhận ra bản chất thật của nó. Chúng ta phải sử dụng những phương pháp tinh xảo. Hãy nghĩ đến những dục lạc như việc ăn thịt và nó mắc trong kẽ răng của bạn. Bạn phải tìm một tăm để khươi nó ra. Khi miếng thịt rớt ra, bạn cảm thấy nhẹ nhõm được một lát. Có thể bạn quyết định không ăn thịt nữa. Nhưng lần tới khi nhìn thấy thịt, bạn không cưỡng nổi. Bạn ăn thêm chút nữa và rồi nó lại mắc vào kẽ răng. Rồi bạn lại phải lấy nó ra và cảm thấy thoải mái một lần nữa, cho đến khi bạn ăn thịt lại. Áp lực tăng lên dần cho đến khi bạn cho nó ra bớt. Chỉ là vậy thôi. Tôi không thấy điều gì phức tạp cả.

Những điều này, tôi chẳng học hỏi từ một người nào khác. Chúng xảy đến với tôi trong quá trình tu hành. Tôi ngồi thiền và quán chiếu dục lạc như một cái tổ kiến. Một người đàn ông lấy cây gỗ chọc vào tổ kiến cho đến khi mấy con kiến chạy ra ngoài, bò lên cây gỗ và lên mặt ông ta, cắn vào mắt và tai của ông. Vậy mà ông vẫn không nhìn thấy tình cảnh khó khăn của mình.

Giáo lý của Đức Phật có nói rằng nếu chúng ta nhìn thấy sự nguy hiểm của một điều gì đó, bất kể nó có vẻ tốt đẹp như thế nào, chúng ta biết rằng nó có hại. Bất cứ điều gì mà chúng ta chưa nhìn thấy sự nguy hiểm của nó, chúng ta cứ nghĩ rằng nó tốt. Nếu chúng ta chưa nhìn thấy sự nguy hiểm của một thứ gì đó, chúng ta không thể thoát khỏi nó.

Bạn có nhận thấy một điều là: bất kể một “việc” nào đó bẩn thỉu đến chừng nào, vẫn có người ưa thích nó. Việc này không sạch sẽ, nhưng bạn không phải trả tiền để người ta làm nó - họ sẽ vui vẻ tình nguyện. Với những việc bẩn thỉu khác, người ta sẽ không làm dầu bạn có trả tiền. Nhưng việc bẩn thỉu này, họ sẽ hăng hái chấp thuận; bạn không phải trả tiền cho họ. Công việc không sạch sẽ, nhưng tại sao người ta thích? Làm sao bạn có thể cho rằng con người là thông minh khi họ ứng xử theo kiểu này?

Hãy nhìn vào con chó quanh tu viện này - có cả đàn ở đây. Chúng chạy quanh cắn xé nhau, có con bị cắn đến tàn tật. Nhưng chỉ vài tháng sau là chúng lại đâu hoàn đó. Hễ có con chó nhỏ hơn mới đến là những con chó lớn lại đuổi cắn nó. Con chó đó kêu ẳng ẳng, kéo lê cái chân bị thương của nó. Nó chỉ là một con chó nhỏ thôi, nhưng nó nghĩ rằng một ngày nào đó, nó sẽ có cơ hội. Rồi nó bị cắn tơi bời, và đó là tất cả những gì nó nhận được. Trong suốt mùa kiếm bạn tình, nó có thể chẳng có được một cơ may nào.

Những con chó này chạy quanh và tru với nhau từng đàn - tôi nghĩ chắc là chúng đang ca hát! Chúng nghĩ rằng chúng đang vui chơi, chúng đang ca hát, nhưng chúng không biết điều gì khiến chúng làm như thế - chúng chỉ làm theo bản năng của mình một cách mù quáng.

Hãy suy ngẫm về điều này. Nếu bạn thật sự muốn tu hành, bạn nên hiểu biết những cảm xúc của mình. Ví dụ, bạn nên gần gũi ai, trong số những tỳ kheo, sa di, hay người tại gia? Nếu bạn thân cận với người nói nhiều, họ sẽ ảnh hưởng bạn, khiến bạn cũng nói nhiều. Nội chuyện riêng của bạn thôi cũng đã nhiều rồi, nay lại cộng thêm vấn đề của họ nữa. Chúng sẽ nổ tung mất!

Người ta thích chơi với những người nói nhiều và nói những chuyện phù phiếm. Họ có thể ngồi hàng giờ để nghe những chuyện như thế. Nhưng khi nhắc đến việc nghe pháp và việc tu hành, thì họ chẳng tiếp thu được bao nhiêu. Tôi vừa bắt đầu buổi thuyết giảng là họ buồn ngủ rồi. Họ không nhận được gì cả. Khi tôi nói đoạn cuối, thì mọi người mới tỉnh dậy và mở mắt ra. Như thế thì có ích gì? Người tu hành chân chánh sẽ rời khỏi buổi thuyết pháp với một cảm giác thăng hoa và hăng say. Họ đã học được một điều gì đó.

Hãy chọn lựa. Trong mỗi giây khắc, bạn đều đứng ở một ngả rẽ giữa con đường thế gian và con đường Đạo. Bạn chọn con đường nào? Bạn có sự chọn lựa. Nếu bạn muốn giải thoát, thời điểm là ở đây.


Chương 10

Hai mặt của thực tại


Mọi thứ đều có hai mặt và 
bạn phải nhìn thấy cả hai. 
Rồi khi hạnh phúc đến, 
bạn không chìm đắm trong đó;
Khi đau khổ phát sinh, 
bạn cũng không chìm đắm.


Trong cuộc đời, chúng ta có hai sự lựa chọn: chìm đắm trong thế gian hay vượt lên thế gian. Đức Phật là một người đã có thể tự mình vượt lên trên thế gian và vì thế Ngài đã đạt được sự giải phóng về tâm linh.

Cùng thế ấy, có hai loại kiến thức - kiến thức thế gian và kiến thức tâm linh, hay trí huệ chân chính. Nếu chúng ta chưa tu hành và rèn luyện chính mình, bất kể chúng ta có bao nhiêu kiến thức, nó vẫn là kiến thức của thế gian và do đó không thể giải phóng chúng ta.

Hãy nghĩ và nhìn cho kỹ! Đức Phật nói rằng các pháp của thế gian xoay chuyển thế gian. Chạy theo thế gian, tâm bị vướng nơi thế gian, làm ô nhiễm chính nó, dầu lui hay tới, nó chẳng bao giờ thoả mãn. Người thế gian là những người luôn tìm kiếm một điều gì đó, nhưng không bao giờ thấy đủ. Kiến thức thế gian không khác gì sự ngu dốt, nó không phải là kiến thức với sự hiểu biết rõ ràng. Cho nên nó không có chỗ dừng lại.

Nó xoay vần chung quanh những mục đích thế gian, đó là sự tích góp của cải, mong cầu danh lợi và dục lạc; nó là một tấm màn ảo tưởng dày đặc mà chúng ta bị cột chặt vào.

Một khi chúng ta đạt được một điều gì, sự ganh tỵ, lo lắng, và ích kỷ phát sinh. Và khi chúng ta cảm thấy sợ hãi mà không thể đẩy lùi nó bằng sức người, chúng ta dùng đầu óc của mình để phát minh ra đủ thứ công cụ, ngay cả vũ khí và bom nguyên tử, chỉ để làm nổ tan xác những người khác. Tại sao lại phiền phức đến thế?

Đây là con đường của thế gian. Đức Phật nói rằng nếu một người đi theo con đường này, họ sẽ đi mãi mà không tới khúc cuối.

Hãy tu hành để giải thoát! Hẳn nhiên, sống thuận với trí huệ chân chính không phải dễ, nhưng những ai thành tâm cầu Đạo, sẽ có thể bền tâm và nhẫn nại. Thiểu dục tri túc. Ăn ít, ngủ ít, nói ít, và sống có tiết độ. Bằng cách này, chúng ta có thể đoạn tuyệt với thế gian.

Nếu hạt giống của thế gian chưa bị nhổ tận gốc rễ, chúng ta sẽ vẫn bị phiền toái và rối rắm mãi. Ngay cả khi bạn đã xuất gia, nó vẫn tiếp tục lôi kéo bạn. Nó tạo nên quan điểm của bạn, ý kiến của bạn; nó tô điểm những ý tưởng của bạn - nó là như thế đó.

Người ta không nhận thấy điều này. Họ nói rằng họ sẽ hoàn tất những công việc của thế gian. Họ chỉ hy vọng thôi. Giống như một vị thủ tướng chính phủ mới nhận chức, nóng lòng muốn bắt đầu công việc quản lý của ông. Ông ta nghĩ rằng ông có tất cả những câu trả lời, nên ông giũ bỏ hết những chính sách cũ, nói rằng, “Xem đây! Tôi sẽ làm tất cả một mình”. Đó là tất cả những gì họ làm, mang thứ này vào và đem thứ kia ra, không bao giờ hoàn tất một điều gì cả. Họ không bao giờ thật sự thành tựu một điều gì.

Bạn không thể nào là một điều gì mà có thể làm vừa lòng tất cả mọi người - người thì thích một ít, người thì thích rất nhiều, có người thích ngắn, có kẻ thích dài, người thích mặn, kẻ thích cay. Muốn đem mọi người lại với nhau và đồng ý với nhau là một điều bất khả thi.

Tất cả chúng ta đều muốn thành tựu một điều gì trong đời mình. Nhưng thế giới, với tất cả sự phức tạp của nó, khiến cho con người khó có thể thật sự thành tựu một điều gì. Ngay cả Đức Phật, sinh ra trong một hoàn cảnh vô cùng thuận lợi và cao quý của một vị thái tử, vẫn không tìm thấy sự thành tựu nào trong đời sống thế gian.


Cái bẫy của lục căn


Đức Phật nói về dục vọng và lục trần - sắc, thanh, hương, vị, xúc, tâm pháp. Sự ham muốn hạnh phúc, đau khổ, tốt, xấu, v.v... dẫy đầy khắp nơi!

Sắc - có cảnh tưởng nào có thể sánh được với cảnh tượng một phụ nữ. Không phải vậy sao? Một người đàn bà đẹp không làm cho bạn muốn nhìn sao? Một người với thân hình hấp dẫn vừa đi ngang qua - bạn nhìn sững! Còn âm thanh thì sao? Không có âm thanh nào thu hút bạn hơn tiếng nói của người đàn bà. Nó xuyên thấu con tim của bạn! Mùi hương cũng vậy. Mùi nước hoa của người đàn bà quyến rũ hơn hết.

Không có mùi hương nào khác có thể so sánh được. Vị - ngay cả món ăn ngon nhất cũng không thể so sánh với vị ngọt ngào của một người đàn bà. Xúc cảm cũng vậy. Khi bạn vuốt ve một người đàn bà, bạn choáng váng, say sưa, và quay cuồng!

Có một pháp sư thần thông quảng đại ở Taxila tại nước Ấn Độ thuở xưa. Ông dạy cho một trong các môn đệ tất cả phép thuật và bùa chú của mình. Khi người đệ tử đó thông thạo, anh ra đi với chỉ thị cuối cùng từ vị thầy của mình: “Ta đã dạy cho con tất cả những gì ta biết về thần chú và phép thuật. Những loại vật có nanh vuốt, những loài có sừng, và ngay cả những con thú to lớn, con cũng không cần phải sợ. Con sẽ được bảo vệ từ những thứ này, ta có thể bảo đảm điều đó. Tuy nhiên, chỉ có một điều ta không thể che chở cho con, đó là sự quyến rũ của một người đàn bà. Không có thần chú nào có thể bảo vệ con khỏi điều này. Con phải tự chăm sóc cho mình”.

Đàn bà gây phiền phức cho đàn ông. Đàn ông gây phiền phức cho đàn bà. Nó là vậy. Nếu đàn ông sống với nhau, thì không có vấn đề. Nếu phụ nữ sống với nhau, cũng không có vấn đề. Khi một người đàn ông nhìn thấy một người đàn bà, trái tim của anh ta đập loạn xạ. Cái gì vậy? Lực gì vậy? Nó lôi kéo và thu hút bạn vào - không ai nhận ra cái giá mà họ phải trả.

Những đối tượng của tâm nảy sinh từ lòng ham muốn: ham muốn của cải, ham muốn giàu có, hay ham đắm mãi một điều gì đó. Loại ham muốn này không thâm trầm và mãnh liệt lắm, nhưng cũng đủ khiến cho bạn say sưa, ngây ngất. Tình dục thì khác, khi nó trỗi dậy, bạn mất thăng bằng và không còn làm chủ được chính mình. Bạn quên luôn cả những người đã nuôi nấng bạn - cha mẹ của bạn!

Đức Phật dạy rằng, lục trần - đối tượng của lục căn - là những cảm bẫy của Ma vương. Ma vương nên được hiểu như là một điều gì đó có hại cho chúng ta. Cạm bẫy đó trói buộc chúng ta. Nó là cái bẫy của thợ săn, và thợ săn là Ma vương.

Khi thú rừng rơi vào cái bẫy của thợ săn, tình trạng của chúng rất đáng buồn. Chúng bị giữ chặt lại và phải đợi người thợ săn tới để giết chúng. Bạn có thấy cái bẫy chim bao giờ chưa? Cái bẫy bật mạnh lên và “bốp” - thộp ngay cổ!

Một cái lò xo tốt giữ chặt con chim lại. Nó bay tới bay lui, nhưng không thể thoát ra khỏi nơi đó. Khi người thợ săn tới, thế là xong - hết đường chọn lựa!

Cạm bẫy của lục trần cũng vậy. Chúng nắm giữ chúng ta và trói chặt chúng ta lại. Nếu bạn dính mắc vào lục căn, bạn cũng giống như con cá bị mắc câu. Khi người thuyền chài tới, bạn có vùng vẫy cỡ nào cũng không thể thoát khỏi được. Thật ra, bạn không bị bắt như kiểu con cá, mà giống kiểu con ếch hơn - con ếch nuốt chửng cái lưỡi câu xuống sâu dưới bụng của nó. Con cá chỉ mắc câu nơi miệng.

Bất cứ ai bám víu vào lục căn thì cũng như vậy. Họ giống như một người say rượu mà gan đang bị hư hoại dần - họ không biết khi nào họ uống đủ. Họ cứ uống, uống mãi một cách bừa bãi. Và rồi họ mang bệnh và chịu đau đớn.

Một người đàn ông đang đi trên đường và rất khát nước. Ông ngừng lại và hỏi xin một ly nước. Người cho nước nói, “Anh có thể uống nước này nếu muốn. Nước có mùi vị ngọt ngào, nhưng nếu uống nó vào anh sẽ bị bệnh. Tôi phải nói cho anh biết trước. Nó sẽ khiến anh bệnh nặng đến độ có thể chết được”. Người đàn ông đó không nghe lời. Ông ta khát nước quá rồi! Đây cũng giống như trường hợp một người thèm khát thú vui của lục căn. Đức Phật dạy rằng chúng là chất độc - sắc, thanh, hương, vị, xúc, tâm pháp là chất độc. Chúng là những cạm bẫy tai hại. Nhưng người đàn ông này không nghe. “Tôi muốn uống nước, bất kể hậu quả là gì, cứ để tôi uống cái đã!” Ông chế một chút nước và nuốt xuống. Thấy nó thơm ngon, ông uống thêm nữa, uống cho đến đã thèm mới thôi. Và rồi ông bị bệnh nặng gần chết. Ông đã không nghe lời khuyên răn vì bị áp đảo bởi lòng ham muốn mãnh liệt.

Đó là tình trạng của một người tham đắm dục lạc. Ông ta say sưa với sắc, thanh, hương, vị, xúc, tâm pháp - chúng thơm ngon vô cùng!



Con đường thế gian và sự giải thoát


Con người chết vì những dục vọng của họ; có người thì gần ngắc ngư - bị mắc kẹt vào con đường thế gian là như thế đó. Trí huệ thế gian chạy theo các giác quan và những đối tượng của nó. Dầu trí huệ đó có tinh xảo bao nhiêu, nó chỉ tinh xảo ở mức độ thế gian. Bất kể những đối tượng của lục căn có hấp dẫn bao nhiêu, nó chỉ hấp dẫn đối với quan điểm của thế gian. Nó không phải là niềm phúc lạc của sự giải thoát. Nó không giải phóng bạn khỏi thế gian.

Chúng ta phải tu hành hầu có thể nhận biết trí huệ thật để tự mình có thể buông bỏ mọi ràng buộc. Tu hành để thoát khỏi sự ràng buộc! Quán xét thân thể; quán xét mọi thứ xung quanh bạn cho đến khi bạn trở nên mệt mỏi và chán ngán tất cả những thứ đó, và rồi bạn sẽ thản nhiên trước mọi việc. Tuy nhiên, sự thản nhiên không dễ dàng phát sinh, chừng nào bạn còn chưa nhận biết rõ ràng.

Chúng ta đến đây xin xuất gia - chúng ta học hỏi, đọc kinh, tu tập, hành thiền. Chúng ta quyết tâm làm cho tâm mình kiên định, nhưng điều này không dễ. Chúng ta quyết tâm thực hành một hạnh nào đó; chẳng hạn, chúng ta nói rằng chúng ta sẽ tu tập theo cách này, cách nọ - nhưng chỉ một, hai ngày, có lẽ chỉ vài ba giờ đồng hồ thôi, thì chúng ta quên hết. Rồi khi nhớ lại, chúng ta lại quyết tâm trở lại. "Lần này, tôi sẽ làm đúng!". Không bao lâu, chúng ta lại bị một trong các giác quan của mình lôi kéo và lòng dũng mãnh của chúng ta lại tan theo mây khói. Và rồi, chúng ta lại bắt đầu từ đầu! Và cứ như thế mãi.

Giống như một con đê xây vụng, quyết tâm tu hành của chúng ta yếu ớt. Chúng ta vẫn không nhìn thấy và theo đuổi con đường tu hành chân chính. Và nó cứ như thế mãi cho đến khi chúng ta nhận ra trí huệ thật. Một khi nhận thấy chân lý, chúng ta mới được giải phóng hoàn toàn. Điều duy nhất còn lại là sự bình an.

Tâm chúng ta không bình an bởi vì những thói quen cũ của chúng ta. Chúng ta thừa hưởng những thứ này từ những hành động trong quá khứ, và rồi chúng đi theo chúng ta khắp nơi và quấy rầy chúng ta. Chúng ta tranh đấu và tìm đường lẩn tránh, nhưng chúng ta bị chúng trói buộc và lôi kéo chúng ta theo chúng. Những thói quen này không quên đường cũ. Chúng bám vào những thứ quen thuộc để sử dụng, để say mê, và để hưởng thụ - đó là cách mà chúng ta sống.

Bất kể bạn cố gắng bao nhiêu để giải phóng chính mình, bạn sẽ không thể xoá bỏ cho đến khi bạn nhìn thấy giá trị của sự tự do và nỗi khổ của cảng nô lệ. Thường thì bạn tu hành một cách mù quáng, nhẫn nại, trì giới, chỉ làm theo hình thức - bạn không thật sự tu hành để được tự do hay giải thoát. Bạn phải nhìn thấy giá trị của sự xả bỏ những ham muốn của mình trước khi bạn có thể thật sự tu hành; chỉ khi đó mới có sự tu hành chân chính.

Mọi thứ mà bạn làm phải được làm với sự tỉnh giác. Khi bạn nhìn thấy rõ ràng, thì sự nhẫn nại hay ép buộc không còn cần thiết. Bạn còn thấy khó khăn và còn thấy nặng nề bởi vì bạn chưa nhận ra điểm này. Sự bình an phát sinh khi bạn làm việc với toàn thể thân và tâm của bạn. Bất cứ thứ gì chưa hoàn tất khiến bạn cảm thấy không thoả mãn. Những thứ này cột trói bạn với cảm giác lo âu bất cứ bạn đi đến đâu. Bạn muốn hoàn tất mọi thứ, nhưng hoàn tất mọi việc là điều không thể thực hiện được.

Chẳng hạn như trường hợp của những thương gia thường đến đây gặp tôi. "Khi nào tôi thanh toán hết nợ nần và sắp xếp nhà cửa xong", họ nói, "tôi sẽ đến đây xuất gia". Họ nói như thế đó, nhưng họ có bao giờ sắp xếp hết mọi việc không? Khi nào mới hết? Họ vay tiền để trả món nợ này, rồi họ trả món tiền kia, và bắt đầu lại nữa. Một thương gia nghĩ rằng khi trả hết nợ nần, ông sẽ hạnh phúc, nhưng biết bao giờ mới trả hết mọi thứ. Con đường của thế gian lừa gạt chúng ta như thế đó - chúng ta cứ đi quanh quẩn mãi, không bao giờ nhận ra vấn đề của mình.



Tu hành liên tục


Trong sự tu hành của chúng ta ở đây, chúng ta chỉ nhìn thẳng vào tâm. Mỗi khi thấy mình bắt đầu giải đãi, chúng ta quyết tâm mạnh mẽ hơn - nhưng rồi, sau một hồi, chúng ta lại thả lỏng. chúng ta bị tâm lôi kéo lung tung bằng cách đó. Nhưng những người có chánh niệm giữ chặt tâm lại và không ngừng củng cố chính họ, kéo họ trở lại, huấn luyện, tu tập, và phát triển.

Người không có chánh niệm làm hỏng tất cả. Họ cứ đi lạc hướng mãi. Họ không vững vàng và kiên định trong sự tu hành, cho nên những dục lạc của thế gian liên tục lôi kéo họ - có thứ kéo chỗ này, có thứ kéo chỗ kia. họ cứ chạy theo những sự tưởng tượng và ham muốn của họ, không bao giờ đoạn tuyệt được với cái vòng luẩn quẩn này.

Được xuất gia không phải dễ. Bạn phải có quyết tâm dũng mãnh. Bạn nên tin tưởng vào sự tu hành, tin tưởng đủ để tiếp tục tu hành cho đến khi bạn chán ngấy những cái thích và không thích của bạn và rồi nhìn thấy sự việc đúng với chân lý. Thường thường, bạn chỉ không hài lòng vơí những cái bạn không thích. Nếu bạn thích một thứ gì, bạn không muốn buông bỏ nó. Bạn phải trở nên chán ngấy với những cái không thích và những cái thích của bạn, với sự đau khổ và sung sướng của bạn.

Cốt tuỷ của Phật Pháp là đây! Giáo pháp của Đức Phật thâm sâu và tinh tế. Không dễ hiểu đâu. Nếu trí huệ chân chánh chưa phát sinh, bạn không thể nhận ra nó. Khi bạn hạnh phúc, bạn nghĩ rằng đời chỉ có hạnh phúc mà thôi. Khi bạn đau khổ, bạn cho rằng đời sống toàn là đau khổ. Bạn không nhận ra rằng hễ có lớn, thì có nhỏ, hễ có nhỏ, thì có lớn. Bạn không nhận ra điều này. Bạn chỉ nhìn thấy một mặt.

Mọi thứ đề có hai mặt và bạn phải nhìn thấy cả hai. Rồi khi hạnh phúc đến, bạn không chìm đắm trong đó; khi đau khổ phát sinh, bạn cũng không chìm đắm. Khi hạnh phúc đến, bạn không quên sự khổ bởi vì bạn biết rằng chúng phụ thuộc vào nhau.

Cùng thế ấy, thức ăn có lợi cho tất cả muôn loài - để nuôi dưỡng thân thể. Nhưng thức ăn cũng có thể có hại, Chẳng hạn, nó có thể gây ra nhiều chứng đau dạ dày khác nhau. Khi bạn nhìn thấy lợi điểm của một thứ gì, bạn phải đồng thời nhận biết yếu điểm của nó, và ngược lại. Khi bạn cảm thấy thù hận và ganh ghét, bạn nên thiền quán về tình thương và sự cảm thông. Bằng cách này, bạn trở nên quân bình hơn và tâm của bạn trở nên an tịnh hơn.




Lá cờ rỗng không


Tôi có đọc một cuốn sách Zen.Trong Zen người ta ít khi giải thích khi dạy dỗ học trò. Chẳng hạn, nếu một vị tăng ngủ gục trong khi thiền, họ đến gần, dùng một cái cây, quất vào lưng anh ta. Khi người thiền sinh buồn ngủ bị đánh, anh ta bày tỏ lòng biết ơn của mình bằng cách cám ơn người đó. Thiền sinh Zen được dạy phải biết ơn đối với mọi cảm giác cho anh ta cơ hội để phát triển.

Một hôm, chư tăng tập trung trong một buổi họp. Bên ngoài phòng họp có một lá cờ đang bay phất phơ trong gió. Một cuộc tranh luận nảy sinh giữa hai vị tăng về cái lý do mà lá cờ bay. Một người cho rằng lá cờ bay vì gió. Người kia cãi lại, nói rằng lá cờ tự nó bay. Rồi họ cãi nhau mãi và có lẽ sẽ cãi nhau đến chết nếu vị thầy không can thiệp. "Cả hai người, không ai đúng cả", vị thầy nói. "Không có lá cờ mà cũng không có gió".

Đây là sự tu hành: không có bất cứ thứ gì cả, không có lá cờ và không có gió. Nếu có lá cờ, thì có gió; nếu có gió thì có lá cờ. Bạn nên suy ngẫm và thiền quán về điều này cho thật thấu đáo, cho đến khi bạn nhìn thấy đúng với chân lý. Nếu bạn suy ngẫm kỹ, thì không có gì còn lại cả. Tất cả đều trống không; không có lá cờ và không có gió. Trong cái không to lớn, không có lá cờ và không có gió. Không có sự sinh, không có sự già nua, không có bệnh hoạn hay sự chết. Sự hiểu biết thường tình của chúng ta về lá cờ và ngọn gió chỉ là một quan niệm. Trong thực tế, không có gì ở đó cả. Chỉ có vậy thôi!

Nếu chúng ta tu hành theo cách này, chúng ta sẽ nhận ra tính toàn thể và tất cả mọi vấn đề của chúng ta sẽ chấm dứt. Trong cái không to lớn, Tử Thần sẽ không bao giờ tìm thấy bạn. Không có gì để sự già nua, bệnh hoạn, và sự chết đi theo. Khi chúng ta nhìn thấy và hiểu biết đúng với chân lý, nghĩa là có Chánh Kiến, thì chỉ có cái không to lớn này mà thôi. Ở đây, không còn có "chúng ta", không có "họ", không còn "tự ngã" nữa.




Khu rừng của lục căn


Thế giới với những con đường bất tận của nó cứ đi mãi không ngừng. Nế chúng ta cố hiểu tất cả, nó chỉ khiến cho cúng ta hoang mang và rối loạn mà thôi. Nhưng nếu chsng ta quán chiếu thế giới thật rõ ràng, trí huệ chân chánh sẽ phát sinh. Đức Phật là người đã thấu hiểu những con đường của thế gian. Ngài có thể ảng hưởng và dẫn dắt bởi Ngài có trí huệ rộng lớn về thế gian. Bằng cách hoán chuyển trí huệ thế gian của Ngài, Ngài thấu suốt và đạt được trí huệ vượt thế gian khiến Ngài trở thành một chúng sinh rất cao đẳng. Cho nên, chúng ta tu tập giáo lý này, quán chiếu nó, chúng ta sẽ đạt đến một đẳng cấp tâm thức hoàn toàn mới.

Khi chúng ta nhìn một vật gì, không thấy có vật đó. Khi chúng ta nghe thấy một âm thanh, không thấy có âm thanh. Khi ngửi, chúng ta có thể nói rằng không có mùi. Tất cả lục căn đều hiện hành, nhưng chúng đều tạm bợ. Chúng chỉ là những cảm giác sinh rồi diệt mà thôi.

Nếu chúng ta hiểu như thế, thì lục căn không còn có thực chất. Chúng chỉ là những cảm giác đến rồi đi. Sự thật thì không có "thứ" gì cả. Nếu không có một "thứ" gì cả, thì không có "chúng ta" và "họ". Nếu không có "chúng ta" thì không có thứ gì thuộc về "chúng ta". Chỉ bằng cách này, sự khổ mới bị dập tắt. Không có ai để chịu khổ, nên ai là người đau khổ?

Khi đau khổ phát sinh, chúng ta dính mắc vào sự đau khổ và vì thế phải chịu đau khổ. Cũng vậy, khi hạnh phúc đến, chúng ta dính mắc vào sự hạnh phúc và rồi cảm thấy khoái lạc. Sự dính mắc vào những cảm xúc này tạo ra cái quan niệm về tự ngã hay bản ngã, và những tư tưởng như "chúng ta" và "họ" tiếp tục hiện hành. Đây là nơi mọi thứ sinh khởi, và rồi nó mang chúng ta đi quanh mãi trong cái vòng bất tận của nó.

Cho nên, chúng ta hành thiền và sống hợp với chánh pháp. Chúng ta rời bỏ gia đình để đến sống trong rừng và để được bình an. Chúng ta trốn chạy, không phải vì sợ hay để thoát ly thế gian, nhưng để có thể phấn đấu với chính mình. Tuy nhiên, người ta đến sống trong rừng rồi gắn bó với đời sống nơi đó, giống như những người thành thị gắn bó với đời sống thành thị. Họ lạc hướng trong rừng và họ lạc hướng nơi thành thị. Đức Phật ca tụng đời sống trong rừng bởi vì sự tĩnh mịch tinh thần và thể xác có lợi cho sự tu hành. Tuy nhiên, Ngài không muốn chúng ta gắn bó vào đời sống trong rừng hay bị dính mắc vào sự yên tĩnh và bình an nơi đó. Chúng ta tu hành là để trí tuệ phát sinh. Nơi đây trong rừng, chúng ta có thể trưởng dưỡng hạt giống trí huệ. Nếu cuộc sống rối rắm và hỗn loạn, những hạt giống này khó có thể lớn mạnh. Nhưng một khi chúng ta đã quen với cuộc sống trong rừng, chúng ta có thể trở ra ngoài để phấn đấu với đời sống thành thị cùng với những kích thích giác quan mà nó mang đến. Tập sống trong rừng là cho phép trí huệ phát triển. Và rồi chúng ta có thể áp dụng trí huệ này ở bất cứ nơi nào chúng ta đi đến.

Khi lục căn bị kích thích, chúng trở nên kích động và trở thành những địch thủ của chúng ta. Chúng chống lại chúng ta bởi vì chúng ta vẫn chưa có trí huệ để đối phó với chúng. Trong thực tế, chúng là những vị thầy của chúng ta, nhưng vì vô minh, nên chúng ta không nhận ra điều đó. Khi sống nơi thành thị, chúng ta không bao giờ nghĩ rằng lục căn có thể dạy dỗ chúng ta điều gì. Chừng nào trí huệ chân chánh chưa hiện hành, chúng ta tiếp tục nhìn thấy lục căn và lục trần là những kẻ thù. Một khi trí huệ thật phát sinh, chúng không còn là kẻ thù của chúng ta nữa, mà là cánh cửa dẫn đến sự chứng ngộ.

Hãy nhìn mấy con gà rừng ở đây. Ai cũng biết chúng sợ con người đến chừng nào. Nhưng tôi đã có thể dạy dỗ chúng và học hỏi từ chúng. Tôi bắt đầu bằng cách ném gạo cho chúng ăn. Mới đầu chúng rất sợ và không dám đến gần. Sau một thời gian, chúng quen dần và bắt đầu trông đợi thức ăn. Thấy không, có một điều gì đó để học ở đây - mới đầu chúng tưởng rằng gạo là nguy hiểm, là kẻ thù.  Trên thực tế, gạo không nguy hại gì cả, nhưng chúng không biết rằng gạo là thức ăn nên sợ hãi. Khi chúng tự mình nhận biết rằng không có gì để sợ, chúng mới đến gần để ăn.

Gà học một cách tự nhiên như thế. Sống nơi đây trong rừng, chúng ta cũng học bằng cách đó. Lúc đầu, chúng ta cho rằng lục căn là một vấn đề, và bởi vì chúng ta không xử dụng chúng đúng cách, chúng gây rất nhiều phiền phức cho chúng ta. Qua kinh nghiệm tu hành, chúng ta tập nhìn chúng phù hợp với chân lý. Chúng ta tập sử dụng chúng, như mấy con gà quan sát gạo. Rồi chúng không còn chống lại chúng ta, và vấn đề biến mất.

Chừng nào chúng ta suy nghĩ, khảo sát, và hiểu biết sai lạc, nhũng thứ này sẽ chống lại chúng ta. Nhưng chừng nào chúng ta bắt đầukhảo sát đúng cách, kinh nghiệm sẽ mang đến cho chúng ta trí huệ và sự hiểu biết rõ ràng. Mấy con gà đã nhận biết được rằng gạo là thức ăn, và trong một ý nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói rằng chúng tu tập thiền minh sát. Chúng nhận biết đúng với sự thật; chúng đã chứng ngộ.

Trong sự tu hành, lục căn của chúng ta là những công cụ, mà nếu được xử dụng đúng đắn, có thể giúp chúng ta chứng đắc. Đây là một thứ mà tất cả thiền sinh nên quán chiếu. Khi chúng ta không nhận ra điều này, chúng ta vẫn còn xung đột mãi.

Cho nên, khi sống trong sự tĩnh mịch của rừng núi, chúng ta tiếp tục vun bồi những cảm giác tinh tế và chuẩn bị cho hành trình phát triển trí tuệ. Nhưng nếu bạn đạt được đôi chút bình an từ đời sống nơi đây, đừng nghĩ rằng thế là đủ. Đừng chấp nhận bấy nhiêu thôi! Hãy nhớ rằng chúng ta đến đây là để phát triển hạt giống trí huệ.

Khi trí huệ phát triển và chúng ta bắt đầu hiểu biết đúng với chân lý, chúng ta sẽ không còn bị lôi kéo lên xuống nữa. Thường thường, khi vui vẻ, chúng ta cư xử một cách, khi bực bội, chúng ta cư xử một cách khác; khi chúng ta thích một điều gì đó, thì chúng ta phấn khởi. Khi không thích một điều gì đó, chúng ta chán nản. Như thế này, chúng ta vẫn còn xung đột với những kẻ thù. Khi những điều này không còn chống lại chúng ta, chúng trở nên ổn định và quân bình. Sự thăng trầm hay vui buồn không tồn tại nữa. Chúng ta hiểu rõ những việc này, biết rằng nó chỉ vậy mà thôi. Chúng chỉ là thế gian pháp.

Các pháp thế gian thay đổi để trở thành Đạo Pháp. Pháp thể gian có tám lối; Đạo Pháp cũng có tám lối. Nơi nào có pháp thế gian, nơi đó Đạo Pháp cũng tồn tại. Khi chúng ta sống với sự sáng suốt, tất cả những kinh nghiệm thế gian của chúng ta trở thành sự tu hành Bát Chánh Đạo. Không có sự sáng suốt, các pháp thế gian lấn át và chúng ta rời xa Đạo. Khi Chánh Kiến phát sinh, sự thoát khổ nằm ngay đây trước mắt chúng ta. Bạn sẽ không tìm thấy sự giải thoát bằng cách chạy lòng vòng tìm kiếm ở những nơi khác.

Cho nên, đừng hấp tấp và cố thúc đẩy hay cưỡng ép sự tu hành của bạn. Hành thiền nhẹ nhàng và kiên trì, từng bước một. Nếu bạn cảm thấy bình an, chấp nhận nó; Nếu bạn không thấy bình an, chấp nhận nó luôn. Đó là bản chất của đầu óc. Chúng ta phải tìm con đường tu hành của riêng mình và theo đuổi nó đến cùng.

Có thể trí huệ không phát sinh. Tôi thường nghĩ nếu tôi không có trí huệ, tôi có thể ép buộc mình có nó. Nhưng điều đó chẳng ích lợi gì, không thay đổi một thứ gì cả. Rồi, sau khi suy ngẫm một thời gian, tôi nhận ra rằng cúng ta không thể quán chiếu những thứ chúng ta không có. Thế nên, điều tốt nhất nên làm là gì? Cứ tu hành một cách thư thái. Nếu không có gì khiến ta lo lắng, thì không có gì để sửa chữa. Nếu không có vấn đề, chúng ta không cần phải cố gắng giải quyết nó. Khi có vấn đề, đó là khi bạn phải giải quyết nó, ngay tại đó! Không cần phải đi quanh tìm kiếm một điều gì đặc biệt. Cứ việc sống bình thường, nhưng nhận biết tâm bạn ở đâu. Sống một cách tỉnh thức và hiểu biết rõ ràng. Hãy để trí huệ dẫn dắt bạn. Đừng buông thả theo cảm xúc. Hãy tỉnh giác. Nếu không có gì thì tốt. Khi có điều gì phát sinh, hãy xem xét và quán chiếu nó.




Đến tịnh xá


Thử quan sát một con nhện. Một con nhện giăng lưới ở một nơi thuận tiện và rồi ngồi chễm chệ giữa cái lưới của nó, yên lặng. Không bao lâu sau, một con ruồi bay ngang qua và sa vào lưới. Con ruồi vừa chạm vào và động đậy cái lưới, bốp! - con nhện nhảy lên và cuốn con ruồi vào trong những sơị chỉ tơ. Nó cất con ruồi ở một chỗ khác và rồi quay trở lại để ngồi điềm tĩnh tại trung tâm của cái mạng nhện.

Quan sát một con nhện như thế có thể phát sinh trí huệ. Lục căn của chúng ta có căn nằm ở giữa, và chung quanh là mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân thể. Khi một trong lục căn của chúng ta bị kích động - chẳng hạn, một hình dáng đập vào mắt - nó rung chuyển và động tới tâm. Tâm là cái biết, cái nhận biết hình sắc. Chỉ bấy nhiêu là đủ để trí huệ phát sinh. Giản dị như thế thôi.

Giống như con nhện trong lưới, chúng ta nên sống yên lặng và ít giao tiếp. Khi côn trùng vừa chạm vào lưới, nhện nhanh chóng chụp lấy nó, cột nó lại, và rồi quay trở lại trung tâm của mạng lưới. Điều này không khác gì tâm của chúng ta. "Đến trung tâm" có nghĩa là sống tỉnh thức với sự hiểu biết rõ ràng, luôn cảng giác, và làm mọi việc một cách chính xác - đây là trung tâm của chúng ta. Chúng ta đâu có gì nhiều để làm. Chúng ta chỉ việc sống thận trọng theo cách này. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta sống buông thả, rồi suy nghĩ "Cần gì phải ngồi thiền và đi kinh hành!" và rồi quên hết sự tu hành của chúng ta. Chúng ta không thể buông thả. Chúng ta phải luôn tỉnh giác, giống như con nhện ngồi chờ để chụp lấy mấy con côn trùng làm thức ăn.

Đây là tất cả những gì chúng ta cần biết - ngồi và quán tưởng về con nhện đó. Chỉ bấy nhiêu thôi, rồi trí huệ sẽ tự phát sinh. Chỉ bấy nhiêu thôi, và sự tu hành của chúng ta kể như là đầy đủ.

Điểm này rất quan trọng! Chúng ta không cần phải ngồi thiền và đi kinh hành suốt ngày đêm. Nếu chúng ta cho rằng như thế mới là tu hành, chúng ta thật sự đã khiến cho nó quá khó khăn cho chúng ta. Chúng ta chỉ nên làm những gì chúng ta có thể làm, phù hợp với sức khoẻ và năng lực của mình, sử dụng những khả năng vật chất một cách vừa phải.

Chúng ta phải biết rằng tâm và các giác quan rõ ràng. Nhận biết chúng đến và đi như thế nào, sinh và diệt như thế nào. Hiểu cho thấu đáo! Chúng ta cũng có thể nói rằng, giống như con nhện trói chặt những con côn trùng khác nhau, tâm trói buộc các giác quan với sự vô thường , khổ, và vô ngã. Chúng có thể đi đâu được? Chúng ta giữ chúng làm thức ăn. Những thứ này được cất giữ làm thức ăn cho chúng ta. Thế là đủ, không cần phải làm gì hơn, chỉ bấy nhiêu thôi. Đây là thực phẩm cho tâm của chúng ta, thực phẩm cho kẻ có sự tỉnh thức và hiểu biết.

Nếu bạn biết rằng những thứ này là vô thường, rằng chúng đi liền với sự khổ, và rằng chúng không phải là bạn, bạn có là điên rồ mới chạy theo chúng! Nếu bạn không nhận thấy điều này rõ ràng, bạn sẽ đau khổ. Khi bạn nhìn kỹ và nhận thấy chúng thật sự là vô thường, dầu rằng chúng có vẻ hấp dẫn, chúng thật sự không đáng cho bạn theo đuổi. Tại sao bạn muốn chúng khi bản chất của chúng là đau khổ? Chúng không phải là chúng ta. Chúng không có tự ngã. Chúng không có gì trong đó thuộc về chúng ta. Vậy thì tại sao bạn theo đuổi chúng?  Tất cả mọi việc đều chấm dứt tại đây. Còn nơi nào khác để bạn dứt điểm với chúng không?

Hãy nhìn con nhện cho kỹ và nhìn lại chính mình. Bạn sẽ thấy nó giống nhau. Khi đã nhìn thấy sự vô thường, khổ, và vô ngã, tâm xả bỏ và giải phóng chính mình. Nó không còn dính mắc vào sự đau khổ hay hạnh phúc. Đây là thức ăn cho tâm của người thật sự tu hành và rèn luyện. Chỉ giản dị như vậy thôi, Bạn không cần phải tìm kiếm một nơi nào khác. Bất kể bạn đang làm gì, bạn ở đó, không cần phải om sòm và rầy rà quá để làm gì. Bằng cách này, cường độ và năng lượng tu hành của bạn sẽ sẽ tiếp tục tăng trưởng.




Thoát ly sinh tử


Cường độ của sự tu hành dẫn đến sự giải thoát sinh tử. Chúng ta chưa thoát khỏi đó bởi vì chúng ta vẫn còn ham muốn. Chúng ta không làm những việc ác hay trái đạo đức, nhưng tất cả những điều đó chỉ có nghĩa lachúng ta sống phù hợp với giới luật. Chẳng hạn, có một bài kinh tụng mà trong đó người ta cầu nguyện để tất cả chúng sanh không bị xa lìa những điều họ ưa thích. Nếu bạn suy ngẫm một chút sẽ thấy điều này thật trẻ con. Đó là đường lối của những người vẫn chưa thể xả bỏ.

Con người là như thế - họ cứ muốn sự việc khác vơí bản chất của nó: muốn sống lâu, muốn không bệnh hoạn. Họ kỳ vọng như thế. Cho nên, khi bạn nói với họ rằng những ham muốn không được thoả mãn của họ đã khiến cho họ đau khổ, họ sẽ giật mình sửng sốt. Nhưng họ phải nói gì đây? Không nói được gì cả, bởi vì đó là sự thật! Bạn đang chĩa vào những ham muốn của họ.

Ai cũng có những ham muốn và đều muốn được thỏa mãn. Không ai chịu ngừng lại; không ai thật sự muốn thoát ly. Cho nên sự tu hành của chúng ta phải được tinh luyện một cách nhẫn nại. Những ai tu hành tinh cần, không chểnh mảng hay chệch hướng, có phong cách kiềm thúc và nhẹ nhàng, luôn kiên định và đều đặn - đó là những người sẽ biết. Bất kể điều gì phát sinh, họ vẫn bình thản và không lay động.



PHẦN II

THIỀN ĐỊNH


-ooOoo-

Chương 11

Món quà chánh pháp


Món quà Chánh Pháp này... 
sẽ chỉ cho bạn còn đường 
dẫn tới sự bình an nội tâm.
Thân của bạn có thể rối rắm, 
nhưng tâm sẽ không.
Người thế gian có thể rối rắm, 
nhưng bạn sẽ không, 
bởi vì tâm đã nhìn thấy.


Đôi lúc cha mẹ của chư tăng ở Wat Pah Pong đến viếng thăm con trai của họ. Tôi ân hận là mình không có quà cho những vị khách này. Về mặt vật chất, ở phương Tây, người ta đã có quá nhiều, nhưng Chánh Pháp thì rất ít. Tôi đã từng đến đó, và tận mắt nhìn thấy rằng họ không có đủ Chánh Pháp để mang đến sự bình an và tĩnh lặng. Họ chỉ có những thứ khiến cho đầu óc rối rắm và phiền toái.

Phương Tây đã sẵn phong phú về mặt vật chất và có rất nhiều thứ có thể khiến cho bạn khoan khoái. Tuy nhiên người ta không hiểu Pháp, nên họ cảm thấy nó rất phức tạp. Vì thế hôm nay, tôi tặng cho các bạn một ít Pháp để mang về như là một món quà từ Wat Pah Pong và Wat Pah Nanachat.

Chánh Pháp là gì? Chánh Pháp là thứ có thể cắt xuyên qua những vấn đề và chướng ngại của chúng ta, giảm thiểu chúng dần cho đến không còn gì nữa. Đó gọi là Chánh Pháp và đó là điều nên được khảo sát trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, để rồi khi những ý tưởng phát sinh trong tâm, chúng ta có thể đối phó với chúng.

Chúng ta ai cũng có vấn đề, dầu là sống tại Thái Lan hay tại những quốc gia khác. Nếu chúng ta không biết làm sao để giải quyết chúng, chúng ta sẽ luôn gặp chuyện đau khổ và căng thẳng. Chỉ có trí huệ mới giải quyết được vấn đề, và để có trí huệ, chúng ta phải phát triển và huấn luyện tâm.
Tu hành không phải là một chuyện xa vời; nó nằm ngay tại đây trong thân và tâm của chúng ta. Người Tây phương hay người Thái Lan đều như nhau; cả hai đều có thân và tâm. Một thân thể và tâm trí rối ren có nghĩa là một người rối ren. Một thân thể và tâm trí bình an là một người bình an.

Thật ra, tâm, giống như nước mưa, trong sạch và thuần khiết. Nhưng nếu chúng ta rót vào đó vài giọt màu xanh, nó sẽ trở thành xanh. Nếu chúng ta rót vào đó nước màu vàng, nó trở thành vàng. Tâm cũng vậy. Khi một cảm thọ thoải mái rót vào tâm, tâm thấy thoải mái. Khi một cảm thọ khó chịu đến, tâm thấy khó chịu. Nó bị nhuốm màu, giống như nước vậy.

Khi nước trong tiếp xúc với màu vàng, nó đổi thành màu vàng. Khi nó tiếp xúc với màu xanh, nó biến thành xanh. Nó luôn thay đổi màu sắc. Thật ra, nước xanh hay nước vàng đó, vốn dĩ trong sạch. Đây cũng là bản chất tự nhiên của tâm - trong sáng và thuần khiết. Nó trở nên rối rắm chỉ vì nó đuổi theo các cảm thọ, nó lạc lối trong những cảm thọ khác nhau của nó.

Để tôi giải thích rõ hơn. Thử tưởng tượng bạn đang ngồi trong một khu rừng yên tĩnh. Nếu không có gió, cây lá lặng yên. Khi gió thổi, chúng lay động. Tâm cũng tương tự như chiếc lá. Khi nó tiếp xúc một cảm thọ, nó cũng run rẩy và lay động tùy vào bản chất của cảm thọ đó. Và chúng ta càng ít hiểu biết về Chánh Pháp, tâm càng thích chạy theo các cảm thọ của nó. Khi vui, nó chìm đắm trong niềm vui; khi đau khổ, nó chìm đắm trong sự đau khổ. Cứ rối rắm như thế mãi!

Cuối cùng thì người ta bị thần kinh. Tại sao? Bởi vì họ không biết. Họ chỉ chạy theo những cảm thọ của mình và không biết làm sao để chăm sóc cho tâm của mình. Khi tâm không được chăm sóc, nó giống như một đứa trẻ không cha không mẹ - một đứa trẻ mồ côi không có nơi nương tựa và vì thế nó cảm thấy rất bất an. Cùng thế ấy, nếu tâm không được chăm sóc, không được điều phục với Chánh Kiến, sự việc có thể trở nên rất phiền toái.

Phương pháp điều phục tâm mà tôi sắp nói đây là cách làm cho tâm bình an và tĩnh lặng. Bạn dùng nó để điều phục tâm và để quán chiếu thân thể sau khi tâm đã thuần hóa.

Con người bao gồm hai phần: thân và tâm. Chỉ có hai phần này thôi. “Thân thể” là cái có thể được nhìn thấy với mắt trần. Tâm thì không có khía cạnh vật chất. Tâm chỉ có thể được nhìn thấy với “con mắt huệ” hay “con mắt bên trong”. Hai thứ này, thân và tâm, luôn ở trong trạng thái rối ren, hỗn loạn.

Tâm là gì? Tâm không thật sự là một “thứ” gì cả. Nó là cái nhìn thấy và cảm nhận. Cái cảm nhận, tiếp thu, và kinh nghiệm mọi ấn tượng tâm trí, đó gọi là “tâm”. Khi tôi nói với bạn, tâm bạn nhận biết những gì tôi nói. Âm thanh đi vào lỗ tai bạn và bạn biết tôi vừa nói những gì. Cái vừa kinh nghiệm điều này được gọi là “tâm”.

Tâm không có một tự ngã hay thực chất. Nó không có hình dáng. Nó chỉ kinh nghiệm những động thái của tâm mà thôi! Nếu chúng ta dạy cái tâm này có Chánh Kiến, nó sẽ không có vấn đề gì cả. Nó sẽ an ổn.

Tâm là tâm. Đối tượng của tâm là đối tượng của tâm. Đối tượng của tâm không phải là tâm. Tâm không phải là những đối tượng đó. Để có thể hiểu rõ tâm và đối tượng của tâm, chúng ta nói rằng tâm là cái tiếp nhận những đối tượng hiện lên trong đó.

Khi hai thứ này, tâm và đối tượng của tâm, tiếp cận nhau, chúng tạo nên những cảm xúc - có cái dễ chịu, có cái khó chịu, có cái mát mẻ, có cái nóng bức - đủ thứ. Khi chúng ta không có trí huệ để đối phó với những cảm xúc này, tâm sẽ bị khuấy động.

Thiền là phát triển tâm để nó trở thành cơ sở của sự phát sinh trí huệ. Ở đây, chúng ta lấy hơi thở làm đối tượng của tâm. Chúng ta gọi đó là sự chánh niệm về hơi thở. Chúng ta dùng hơi thở làm đối tượng thiền quán bởi vì nó là cách dễ nhất và vì nó đã từng được sử dụng trong thiền môn từ nghìn xưa.

Khi ngồi thiền, chúng ta ngồi xếp bằng: chân phải đặt trên chân trái, bàn tay phải trên bàn tay trái. Lưng thẳng đứng. Và tự nhủ, “Bây giờ ta sẽ buông xuống mọi gánh nặng và lo âu”. Bạn không muốn bất cứ điều gì khiến cho bạn lo lắng. Hãy buông bỏ tất cả mọi lo âu vào lúc này.

Sau đó, chú tâm vào hơi thở. Rồi hít vào và thở ra. Đừng cố làm cho hơi thở dài thêm hay ngắn bớt. Đừng cố làm cho nó mạnh hay nhẹ hơn. Chỉ để tự nhiên. Sự chánh niệm, khởi sinh từ tâm, sẽ nhận biết hơi thở ra và hơi thở vào.

Hãy bình thản. Đừng nghĩ đến bất cứ điều gì. Điều duy nhất bạn phải làm là chú tâm vào hơi thở ra và hơi thở vào. Ngoài việc đó ra, bạn không phải làm điều gì khác! Chú tâm hoàn toàn vào hơi thở ra và hơi thở vào khi chúng xảy ra. Nhận biết phần đầu, phần giữa, và phần cuối của hơi thở. Khi hít vào, phần đầu của hơi thở là chót mũi; phần giữa, nơi trái tim; và phần cuối, nơi bụng. Khi thơ ra, thì ngược lại: phần đầu của hơi thở ở nơi bụng; phần giữa, nơi trái tim; phần cuối nơi chót mũi.

Tập trung sự chú ý vào ba điểm này sẽ giảm thiểu mọi lo âu. Đừng nghĩ đến bất cứ điều gì khác. Cột sự chú ý của bạn hơi thở. Có lẽ những ý tưởng khác sẽ đi vào đầu và làm bạn xao lãng. Không sao. Cứ việc xoay sự chú ý trở lại với hơi thở. Đôi lúc tâm có thể phán đoán và khảo sát những cảm thọ của nó, nhưng cứ tiếp tục tu tập, liên tục nhận biết phần đầu, phần giữa, và phần cuối của mỗi hơi thở.

Cuối cùng, tâm sẽ nhận biết hơi thở ở ba điểm này trong mọi thời khắc. Khi bạn tu tập như thế một thời gian, thân và tâm sẽ quen dần. Sự mệt mỏi sẽ biến mất. Thân thể sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn và hơi thở sẽ ngày càng trở nên thanh nhẹ hơn. Sự tỉnh thức hay chánh niệm sẽ bảo vệ tâm và canh chừng nó.

Chúng ta tu tập như thế này cho đến khi tâm bình an và tĩnh lặng, cho đến khi tâm hoàn toàn thâm nhập vào hơi thở, trở thành một với hơi thở. Tâm an tịnh, không rối loạn. Nó biết đoạn đầu, đoạn giữa, và đoạn cuối của mỗi hơi thở và tập trung vào đó.

Rồi khi tâm đã bình an, chúng ta chỉ theo dõi hơi thở ra và hơi thở vào tại chót mũi thôi. Chúng ta không phải chạy theo nó xuống tới bụng và đi trở ngược lên nữa. Chỉ tập trung vào chót mũi nơi hơi thở đi vào và đi ra.

Đây gọi là “an định tâm,” tức là khiến cho tâm thanh thản và bình an. Khi sự tĩnh lặng phát sinh, tâm dừng lại; nó dừng lại với đối tượng duy nhất của nó - hơi thở. Đây là phương pháp làm cho tâm an định để trí huệ có thể phát sinh.

Đây là sự khởi đầu, là nền tảng tu hành của chúng ta. Bạn nên cố tu tập như thế mỗi ngày, ở bất cứ nơi nào. Dầu là ở nhà, trong xe hơi, nằm hay ngồi, bạn nên tỉnh thức và quan sát tâm liên tục.

Đây gọi là pháp điều phục tâm và nên được thực hành trong cả bốn oai nghi - đi, đứng, nằm, ngồi. Điều chúng ta cần nhận biết là trạng thái của tâm trong từng giây phút, và để làm như thế, chúng ta phải luôn tỉnh thức và nhận biết chính mình.

Tâm đang vui vẻ hay đau khổ vậy? Nó có rối loạn không? Nó có bình an không? Nhân biết tâm bằng cách này giúp cho tâm trở nên tĩnh lặng, và khi nó đã tĩnh lặng, trí huệ sẽ phát sinh.

Với tâm tĩnh lặng, hãy khảo sát đối tượng thiền quán, thân thể, từ đỉnh đầu đến gót chân, rồi ngược lại đỉnh đầu. Cứ làm như thế mãi. Mang sự chú ý của bạn tới tóc, lông, móng tay, răng, và da. Trong pháp thiền này, chúng ta sẽ nhận thấy rằng toàn bộ thân thể bao gồm bốn nguyên tố: đất, nước, gió, và không khí.

Những phần đặc và cứng trong cơ thể hình thành nguyên tố đất; những phần lỏng và chảy, nguyên tố nước. Các thứ gió đi xuống, đi lên cơ thể tạo thành nguyên tố không khí, và hơi nóng trong cơ thể chúng ta tạo nên nguyên tố lửa.

Tất cả gồm thâu lại tạo thành cái mà chúng ta gọi là “con người”. Tuy nhiên, khi thân thể tan rã, thì chỉ còn lại bốn nguyên tố mà thôi. Đức Phật dạy rằng không có cái gọi là “con người”, không có người Thái Lan, không có người Tây phương, không có ai cả, mà cuối cùng chỉ bốn nguyên tố này - chỉ bấy nhiêu thôi! Chúng ta cho rằng có một người hay một chúng sinh, nhưng trên thực tế thì không hề có những thứ đó.

Dầu nói riêng như những nguyên tố đất, những, gió, không khí, hay nói chung với cái danh xưng “con người,” tất cả những thứ này đều vô thường, khổ, và vô ngã. Chúng không ổn định, không chắc chắn, và luôn thay đổi - không ổn định đến được một phút!

Thân thể chúng ta không ổn định và luôn thay đổi. Tóc thay đổi, móng tay thay đổi, răng thay đổi, da thay đổi - mọi thứ thay đổi, một cách hoàn toàn. Tâm chúng ta cũng vậy, nó luôn thay đổi. Nó không có một tự ngã hay có thực chất. Nó không thật sự là “chúng ta” hay “chúng nó,” mặc dầu nó có thể nghĩ như thế. Có lẽ nó sẽ nghĩ về việc tự sát. Có lẽ nó sẽ nghĩ đến hạnh phúc hay đau khổ - đủ thứ cả! Nó không ổn định. Nếu chúng ta không có trí huệ và chúng ta tin tưởng vào cái tâm này của mình, nó sẽ lừa gạt chúng ta mãi. Và chúng ta sẽ cứ khổ rồi vui, vui rồi khổ.

Tâm là một thứ bất ổn. Thân cũng bất ổn. Đi chung với nhau, chúng mang tính chất vô thường, là nguyên nhân của khổ đau và không có tự ngã. Những thứ này, Đức Phật nói, không phải là chúng sinh, không có một tự ngã, không có linh hồn, không phải là, ‛chúng ta’ hay ‛chúng nó.’ Chúng chỉ là những nguyên tố: đất, nước, gió, và không khí. Chỉ là những nguyên tố mà thôi.

Khi tâm nhìn thấy điều này, nó sẽ xả bỏ mọi dính mắc cho rằng tôi xinh đẹp, tôi tốt, tôi ác độc, tôi đau khổ, tôi có, tôi cái này, tôi cái kia. Bạn sẽ kinh nghiệm một trạng thái hợp nhất, bởi bạn nhận ra rằng tất cả mọi người, trên cơ bản, đều như nhau. Không có cái “ta”. Chỉ có những nguyên tố.

Khi bạn quán chiếu và nhìn thấy sự vô thường, khổ, và vô ngã, bạn không còn bám vào một tự ngã, một con người, một cái “ta”, hay “cô” ta nữa. Tâm đã thấy điều này sẽ trở nên bình thản. Nó nhìn thấy tất cả mọi thứ đều vô thường, bất toại nguyện, và vô ngã.

Và rồi tâm dừng lại. Tâm là Chánh Pháp. Tham, sân, si sẽ giảm thiểu dần cho đến khi chỉ còn lại tâm - chỉ cái tâm thanh tịnh mà thôi. Đây gọi là “tu thiền”.

Món quà Chánh Pháp này tôi tặng cho các bạn để bạn nghiền ngẫm và quán xét trong đời sống hàng ngày của mình. Nó sẽ cho bạn thấy con đường dẫn tới sự bình an nội tâm. Nó sẽ trả lại cho tâm sự tĩnh lặng. Thân thể của bạn có thể đang rối loạn, nhưng tâm của bạn sẽ không. Những người thế gian có thể rối rắm, nhưng bạn sẽ không, bởi vì tâm đã nhìn thấy. Tâm là Chánh Pháp. Đây là Chánh Đạo, là Pháp môn đúng đắn.


Chương 12

Sự quân bình nội tâm


Điềm tĩnh, tự chủ, đây là giới hạnh.
Tâm an trụ vững vàng là định.
Hiểu biết rõ ràng những gì chúng ta 
đang làm là trí huệ.
Tu hành chỉ là giới, định, huệ, 
hay nói cách khác, là Đạo.
Không có con đường nào khác.


Để an định tâm có nghĩa là tìm thấy sự quân bình nội tâm. Nếu bạn cố ép tâm quá nhiều, nó sẽ đi quá xa. Nếu bạn không cố gắng đủ, nó sẽ đánh mất điểm thăng bằng.

Thường thì tâm không yên lặng. Nó luôn chuyển động. Chúng ta phải củng cố nó. Làm cho tâm vững vàng không giống như việc làm cho thân thể khỏe mạnh. Để cho thân thể khỏe mạnh, chúng ta phải tập thể dục, phải thúc ép nó. Để cho tâm vững vàng, chúng ta phải làm cho nó bình an, không nghĩ ngợi lăng xăng. Đối với đa số chúng ta, tâm chưa bao giờ bình an, nó chưa bao giờ có định lực, cho nên chúng ta phải thiết lập ranh giới cho nó. Chúng ta ngồi thiền, trụ lại với “người biết” hay cái “tâm thức nhận biết”.

Nếu chúng ta cố ép để hơi thở của mình dài thêm hay ngắn đi, chúng ta mất thăng bằng. Tâm sẽ bất an. Cũng giống như khi chúng ta mới bắt đầu sử dụng bàn đạp của cái máy may. Trước khi học may, chúng ta phải tập dùng cái bàn đạp cho quen. Đi theo hơi thở cũng vậy. Chúng ta không lo âu là hơi thở của mình dài hay ngắn, mạnh hay yếu, mà chỉ nhận biết nó. Chúng ta để cho nó tự nhiên.

Khi hơi thở quân bình, chúng ta dùng hơi thở làm đối tượng thiền quán. Khi chúng ta hít vào, phần đầu của hơi thở là ở chót mũi, phần giữa ở ngực, và phần cuối ở bụng. Khi chúng ta thở ra, thì đi ngược lại. Chỉ việc nhận biết hơi thở ở chót mũi, ở ngực, và ở bụng. Chúng ta chỉ nhận biết ba điểm này để giữ vững tâm, hạn chế bớt những hoạt động tâm trí để chánh niệm có thể phát sinh dễ dàng. Khi sự chú ý của chúng ta đã ổn định tại ba điểm này rồi, chúng ta tập trung tại một điểm duy nhất thôi - tại chót mũi hay môi trên, nơi không khí đi ra đi vào. Chúng ta không cần chạy theo hơi thở nữa, nhưng chỉ thiết lập chánh niệm tại chót mũi, nhận biết hơi thở tại một điểm này thôi - đi vào, đi ra, đi ra, đi vào.

Không cần phải suy tư về một điều gì đặc biệt, chỉ việc tập trung vào công việc giản dị này trong hiện tại, đó là nhận biết sự hiện diện liên tục của tâm. Không bao lâu, tâm trở nên bình an, hơi thở trở nên vi tế, thân tâm trở nên nhẹ nhàng. Đây là kết quả của công phu hành thiền.

Khi ngồi thiền, tâm trở nên thanh nhẹ, nhưng bất cứ trạng thái của tâm là gì, chúng ta nên cố nhận biết nó. Những hoạt động tâm trí xảy ra cùng với sự tĩnh lặng. Vitakka hiện diện. Vitakka là sự kéo tâm lại với đối tượng quán tưởng. Nếu không đủ chánh niệm, thì không có nhiều Vitakka. Theo sau đó là vicara. Vicara là khi tâm bám chặt vào đối tượng quán tưởng. Những ấn tượng mờ nhạt có thể nảy đây đó, nhưng điều quan trọng là, bất cứ gì xảy ra, chúng ta liên tục nhận biết nó. Khi chúng ta vào sâu hơn, chúng ta luôn ý thức về trạng thái thiền định của mình, biết rõ tâm có an trụ vững vàng hay không. Do đó, cả hai, sự tập trung và sự nhận biết đều hiện diện.

Có được tâm bình an và tĩnh lặng không có nghĩa là không có gì xảy ra cả. Các cảm thọ vẫn phát sinh. Chẳng hạn, khi chúng ta nói về cảnh giới định sơ thiền, chúng ta nói rằng nó có năm yếu tố. Cùng với Vitakka và vicara, piti (hỷ) phát sinh với đối tượng của thiền quán, rồi đến sukha (lạc). Bốn thứ này ở cùng với nhau trong cái tâm đã tĩnh lặng.

Yếu tố thứ năm là ekaggata, hay sự nhất tâm. Bạn có thể bâng khuâng rằng làm sao có được sự nhất tâm cùng lúc với sự hiện diện của những yếu tố khác trong tâm. Đó là bởi vì chúng trở nên hợp nhất khi tâm đã an định. Cả năm yếu tố hợp lại một trạng thái gọi là thiền định. Chúng không phải là trạng thái bình thường của tâm. Chúng là những yếu tố của định. Cả năm tính chất này, không thứ nào quấy nhiễu trạng thái an định căn bản. Vitakka hiện diện, nhưng nó không quấy nhiễu tâm; vicara, hỷ và lạc phát sinh, nhưng chúng cũng không khuấy động tâm. Tâm vì thế, đồng nhất với những yếu tố này. Đây là cảnh giới định sơ thiền.

Chúng ta cũng không cần phải gọi nó là jhana - định sơ thiền, định nhị thiền, v.v... Chỉ việc gọi đó là “tâm an định”. Khi tâm an định dần, nó sẽ không cần đến vitakka và vicara, mà chỉ còn lại sự khoái lạc và hạnh phúc. Tại sao tâm buông bỏ vitakka và vicara? Nó làm thế bởi vì, khi tâm thanh tịnh dần, những hoạt động của vitakka và vicara trở nên quá thô tạp đối với nó. Ở giai đoạn này, khi tâm đã xa lìa vitakka và vicara, những cảm giác khoái lạc tột độ có thể nảy sinh; nước mắt có thể tuôn trào. Nhưng khi sự thiền định vào sâu hơn, ngay cả sự khoái lạc cũng bị thải bỏ, chỉ còn lại sự hạnh phúc và nhất tâm, cho đến cuối cùng, ngay cả sự hạnh phúc cũng ra đi và tâm đạt đến trạng thái thanh tịnh tối thượng. Lúc đó, chỉ còn lại sự tĩnh lặng và nhất tâm. Tất cả những thứ khác đều đã bị bỏ lại phía sau. Tâm đứng yên bất động.

Một khi tâm đã an định, điều này có thể xảy ra. Bạn không cần phải suy nghĩ nhiều về nó; nó tự động xảy ra khi nhân duyên chín muồi. Đây gọi là định lực hay năng lực của định tâm. Trong trạng thái này, tâm không hôn trầm; cả năm chướng ngại - tham, sân, sốc nổi, hôn trầm, và nghi ngờ - đều tan biến.

Nhưng nếu định lực vẫn chưa đủ mạnh và chánh niệm còn yếu, những ấn tượng tâm trí sẽ đôi lúc xâm nhập. Tâm an định, nhưng dường như vẫn có chút ít mây mù bên trong sự an định. Tuy nhiên, đó không phải là một trạng thái hôn trầm bình thường. Vài cảm thọ sẽ hiện lên trong tâm - có lẽ chúng ta sẽ nghe một âm thanh nào đó hay nhìn thấy một con chó hay cái gì đó. Nó không rõ ràng lắm, nhưng cũng không phải là nằm mơ. Đây là bởi vì năm yếu tố này mất thăng bằng và yếu ớt.

Trong những trạng thái định này, tâm thường giở trò bịp bợm. Đôi lúc, tâm ảnh xuất hiện, xuyên qua các giác quan, và thiền giả có thể không biết chắc là điều gì đang xảy ra. “Mình đang ngủ à? Không. Mình đang mơ sao? Không, nó đâu phải một giấc mơ...”. Có những cảm thọ phát sinh, nhưng nếu tâm thật sự thấu suốt và tĩnh lặng, chúng ta không nghi ngờ những hình ảnh hay ấn tượng xuất hiện trong đầu. Những câu hỏi như, “Mình có ngủ quên chăng? Mình lạc đi đâu vậy?” không nảy sinh, bởi chúng là bản chất của một cái tâm vẫn còn nghi ngờ, “Mình ngủ hay thức vậy?” Trong trường hợp này, tâm mờ mịt. Đây là tâm bị lạc hướng trong những cảm thọ của nó. Nó giống như mặt trăng lặn ra phía sau một đám mây, không như một mặt trăng trong sáng vừa xuất hiện từ phía sau đám mây.

Khi tâm bình an và trụ trong chánh niệm vững vàng, chúng ta sẽ không còn nghi ngờ về những hiện tượng trong tâm. Tâm như vậy mới thật sự vượt lên trên mọi chướng ngại. Chúng ta không nghi ngờ bởi vì tâm đã thanh tịnh. Định tâm là như thế đấy.

Có người thấy khó nhập định bởi vì họ không có những khuynh hướng thích hợp. Có chút ít định lực, nhưng không vững vàng. Những người như thế có thể đạt được sự bình an qua trí huệ, qua sự thiền quán và nhìn thấy chân lý của sự việc, và hóa giải những vấn đề của họ bằng cách đó. Đây là sử dụng trí huệ thay vì thiền định. Để đạt được sự trầm tĩnh, bạn không cần phải ngồi thiền. Chỉ việc tự hỏi mình, “Nè, cái gì đó?” và giải quyết vấn đề của bạn ngay tại đó! Một người có trí huệ có thể làm như thế. Có lẽ họ không thể thật sự đạt đến những cảnh giới thiền định cao, nhưng họ đạt đủ để phát sinh trí huệ. Nó giống như sự khác biệt giữa việc trồng lúa và trồng bắp vậy. Người ta có thể sống nhờ vào gạo nhiều hơn bắp. Sự tu hành của chúng ta có thể giống như vậy. Chúng ta nương tựa nhiều vào trí huệ để giải quyết vấn đề. Khi chúng ta nhìn thấy chân lý, sự bình an phát sinh.

Con đường của trí huệ và thiền định không giống nhau. Có người khai ngộ và có trí huệ vững chắc nhưng không có nhiều định lực. Khi họ ngồi thiền, họ không thấy bình an cho mấy. Họ thường nghĩ ngợi rất nhiều. Suy ngẫm về điều này, điều nọ, cho đến một ngày họ quyết định quán xét sự hạnh phúc và đau khổ và nhìn thấy chân tướng của chúng. Dầu lúc đi, đứng, nằm, hay ngồi, sự chứng ngộ đều có thể xảy ra. Họ đạt được sự bình an xuyên qua sự nhìn thấy, sự xả bỏ, qua sự hiểu biết chân lý và vượt lên trên mọi nghi hoặc bởi vì họ đã tự mình nhìn thấy nó.

Có người chỉ có chút ít trí huệ nhưng định lực của họ rất mạnh. Họ có thể nhập định nhanh chóng, nhưng vì không có nhiều trí huệ, họ không có thể nhận ra những phiền não của mình, họ không biết chúng. Và vì thế, họ không thể giải quyết vấn đề của mình.

Nhưng bất kể là bằng phương pháp nào, chúng ta đều phải đoạn trừ lối suy nghĩ sai lầm, để chỉ còn lại Chánh Kiến mà thôi. Chúng ta phải dứt bỏ sự rối rắm, để chỉ còn lại sự bình an.

Với phương pháp nào, chúng ta cũng sẽ tới cùng một đích. Hai khía cạnh này trong sự tu hành - sự bình an và hiểu biết - đi đôi với nhau. Chúng ta không thể bỏ một trong hai thứ đó.

Cái “xem xét” những yếu tố khác nhau phát sinh trong thiền định là sự Chánh niệm. Chánh niệm là một điều kiện mà, xuyên qua sự tu hành, có thể giúp những yếu tố khác nảy sinh. Chánh niệm là sự sống. Mỗi khi chúng ta không có Chánh niệm, khi chúng ta buông lung, chúng ta sống mà như chết. Nếu chúng ta không có Chánh niệm, lời nói và hành động của chúng ta không có ý nghĩa. Chánh niệm là nguyên nhân phát sinh sự nhận biết chính mình và trí huệ. Bất cứ phẩm hạnh nào mà chúng ta trau dồi cũng đều bất toàn nếu chúng thiếu sự Chánh niệm. Chánh niệm là cái xem xét chúng ta khi chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi. Chánh niệm nên hiện diện xuyên suốt, ngay cả khi chúng ta đã xuất định.

Bất kể chúng ta làm gì, chúng ta chịu trách nhiệm. Cảm giác xấu hổ phát sinh. Chúng ta sẽ cảm thấy xấu hổ về những việc làm không đúng của mình. Chúng ta càng thấy xấu hổ, chúng ta càng trầm tĩnh. Khi sự trầm tĩnh gia tăng, sự phóng dật sẽ biến mất. Ngay cả khi chúng ta không ngồi thiền, những yếu tố này cũng hiện diện trong tâm.

Và điều này phát sinh là do chúng ta trưởng dưỡng Chánh niệm. Hãy phát triển Chánh niệm! Nó có giá trị thật. Đây là phẩm chất canh chừng, xem xét những việc làm của chúng ta trong hiện tại. Nếu chúng ta nhận biết chính mình như thế này, điều thiện sẽ tự tách rời khỏi điều ác, Đạo sẽ sáng tỏ, và nguồn gốc của tất cả sự xấu hổ sẽ tan biến. Trí huệ sẽ phát sinh.

Nói tóm lại, sự tu hành bao gồm giới, định, huệ. Điềm tĩnh, tự chủ, đây là giới hạnh. Tâm an trụ vững vàng là định. Hiểu biết hoàn toàn những gì chúng ta đang làm là trí huệ. Tu hành chỉ là giới, định, huệ, hay nói cách khác, là Đạo. Không có con đường nào khác.


Chương 13

Sự hài hòa trong đạo


Tâm thanh tịnh khiến cho 
giới hạnh thuần khiết hơn.
Giới hạnh thuần khiết sẽ 
giúp phát triển định lực.
Định lực vững vàng giúp 
phát sinh trí huệ.
Cuối cùng thì Đạo hợp nhất 
và hoạt động không ngừng.


Bạn cảm thấy tự tin bao nhiêu đối với việc hành thiền của mình? Câu hỏi này không quá đáng đâu, bởi vì thời này nhiều người, cả xuất gia lẫn tại gia, đều giảng dạy pháp thiền, cho nên bạn cảm thấy hoang mang và nghi ngờ. Nhưng nếu bạn hiểu biết rõ ràng, bạn sẽ có thể khiến cho tâm bình an và vững vàng.

Bạn nên hiểu Bát Chánh Đạo như là giới, định, huệ. Đạo chỉ giản dị thế. Chúng ta tu hành là để cho Đạo này phát sinh bên trong chúng ta.

Khi ngồi thiền, người ta bảo chúng ta nhắm mắt, đừng nhìn bất cứ thứ gì khác, bởi vì chúng ta sắp sửa nhìn thẳng vào tâm. Khi chúng ta nhắm mắt, sự chú ý của chúng ta hướng vào bên trong. Chúng ta đặt sự chú ý của mình vào hơi thở, tập trung mọi cảm giác của chúng ta tại đây, đặt sự Chánh Niệm của chúng ta nơi đây. Khi mọi yếu tố của Đạo đã hài hòa, chúng ta sẽ có thể nhìn thấy bản chất thật của hơi thở, cảm xúc, tâm và như đối tượng của tâm. Tại đây, chúng ta sẽ nhìn thấy “tâm điểm,” nơi thiền định và những yếu tố khác của Đạo hội tụ trong sự hài hòa.

Khi bạn ngồi thiền cùng với những người khác, hãy tưởng tượng là bạn đang ngồi thiền một mình. Củng cố cái cảm giác bạn đang ngồi một mình cho đến khi tâm buông bỏ tất cả ngoại vật, chỉ tập trung vào hơi thở. Nếu bạn tiếp tục suy nghĩ, “Người này đang ngồi chỗ kia, người kia đang ngồi chỗ nọ,” bạn sẽ không thể bình an, bởi tâm không hướng vào trong. Quăng những thứ đó qua một bên cho đến khi bạn cảm thấy không có ai chung quanh cả, cho đến khi không có gì cả, cho đến khi bạn không còn bâng khuâng, lo nghĩ về những thứ chung quanh mình.

Hãy để hơi thở ra vào tự nhiên. Đừng ép buộc nó ngắn hay dài thêm. Chỉ việc ngồi đó, quan sát nó đi ra, đi vào. Khi tâm buông bỏ ngoại cảnh, tiếng xe cộ hay những thứ như thế sẽ không quấy nhiễu bạn. Không thứ gì, dầu là cảnh vật hay âm thanh, sẽ có thể quấy nhiễu bạn, bởi vì tâm không tiếp nhận chúng. Sự chú ý của bạn tập trung hoàn toàn vào hơi thở.

Nếu tâm rối loạn và không tập trung vào hơi thở, hãy hít một hơi thật dài và thật sâu, rồi để nó đi ra hết cho đến khi không còn gì nữa. Làm như thế ba lần và rồi tái thiết lập sự chú ý của bạn. Tâm sẽ trở nên yên lặng.

Thường thì tâm sẽ yên lặng một hồi, rồi sự hiếu động và rối rắm quay trở lại. Khi điều này xảy ra, hãy tập trung, thở thật sâu, và rồi tái thiết lập sự chú ý của bạn lên hơi thở. Cứ làm như thế. Khi điều này xảy ra nhiều lần, bạn sẽ thông thạo hơn, và rồi tâm sẽ buông bỏ mọi ấn tượng bên ngoài. Sati (chánh niệm) sẽ được vững chắc.

Khi tâm trở nên thanh nhẹ hơn, hơi thở cũng thanh nhẹ hơn. Các cảm xúc trở nên vi tế hơn, và thân tâm sẽ trở nên nhẹ nhàng. Sự chú ý của chúng ta được xoay vào trong hoàn toàn: chúng ta nhìn thấy hơi thở ra và hơi thở vào một cách rõ ràng, chúng ta nhìn thấy rõ ràng mọi ấn tượng tâm trí. Tại đây, chúng ta sẽ nhìn thấy sự hợp nhất của giới, định, huệ. Đây gọi là sự hài hòa trong Đạo. Khi có sự hài hòa này, tâm của chúng ta không còn hoang mang. Trạng thái này gọi là định.

Sau khi quan sát hơi thở một hồi, hơi thở trở nên rất thanh nhẹ, sự nhận biết về hơi thở sẽ giảm dần cho đến khi chỉ còn lại sự nhận biết mà thôi. Bấy giờ, ta lấy gì để làm đối tượng thiền quán đây? Chúng ta dùng chính sự hiểu biết này làm đề mục của mình - sự nhận biết rằng không có hơi thở. Những điều bất ngờ có thể xảy ra vào lúc này. Có người kinh nghiệm chúng, có người không. Nếu chúng nảy sinh, chúng ta nên tỉnh thức và nhận biết rõ ràng. Có người thấy hơi thở biến mất và hoảng sợ. Họ sợ chết. Lúc đó, chúng ta chỉ nên nhận biết là không có hơi thở và dùng đó làm đối tượng cho sự nhận biết.

Chúng ta có thể nói rằng đây là loại định vững vàng nhất: trạng thái bất động của tâm. Có lẽ thân thể trở nên quá nhẹ nhàng đến độ chúng ta tưởng như không có thân thể. Chúng ta cảm thấy như mình đang ngồi trong một khoảng không, hoàn toàn trống rỗng. Điều này có vẻ bất thường, nhưng thật sự thì không có gì để lo lắng cả. Cứ giữ tâm an định như thế.

Khi tâm an trụ vững vàng trong định, không còn ấn tượng nào quấy nhiễu nó nữa, thiền giả có thể ở lại trong trạng thái này lâu mau tùy thích. Không một cảm xúc đau khổ nào quấy nhiễu chúng ta. Khi thiền định đạt đến mức độ này, chúng ta có thể xả thiền bất cứ khi nào mình muốn, nhưng khi chúng ta xả thiền, chúng ta làm thế một cách thoải mái, chứ không phải vì chúng ta cảm thấy chán hay mệt. Chúng ta xả thiền vì cảm thấy đủ vào lúc đó, chúng ta cảm thấy nhẹ nhàng, không có vấn đề gì cả.

Một khi chúng ta đạt đến mức định này, nếu chúng ta ngồi thiền, khoảng 30 phút hay một tiếng đồng hồ, tâm sẽ duy trì được sự bình an và trầm tĩnh trong nhiều ngày liền. Khi tâm bình an và trầm tĩnh như thế, nó thanh tịnh. Bất cứ những gì chúng ta kinh nghiệm, tâm sẽ nhận biết và khảo sát. Đây là quả của định.

Đức hạnh có công dụng của nó, thiền định có công dụng của nó, và trí huệ cũng thế. Những yếu tố này giống như một vòng tròn. Chúng ta có thể nhìn thấy chúng bên trong cái tâm bình an. Khi tâm bình an, tâm có sự điềm tĩnh và chế ngự nhờ vào trí huệ và thiền định. Tâm càng điềm tĩnh, càng trở nên thanh tịnh. Tâm thanh tịnh khiến giới hạnh của chúng ta thuần khiết hơn. Giới hạnh thuần khiết sẽ giúp phát triển định lực. Định lực vững vàng giúp cho trí huệ phát sinh. Giới, định, huệ tương quan mật thiết với nhau như thế đó.

Cuối cùng thì Đạo hợp nhất và hoạt động không ngừng. Chúng ta nên trưởng dưỡng dũng tâm phát sinh từ Đạo, bởi nó dẫn tới sự khai ngộ và trí huệ.


Hiểm họa của định


Thiền định có thể mang đến cho thiền giả rất nhiều lợi ích hay đủ thứ tai họa. Với một người thiếu trí, nó có hại, nhưng với một người có trí huệ, nó có thể mang đến nhiều lợi ích, bởi nó có thể dẫn tới sự khai ngộ.

Điều có thể có hại cho thiền giả là sự nhập định: định sâu lắng và vắng lặng. Loại định như thế mang đến một cảm giác vô cùng bình an. Khi có sự bình an thì có hỷ lạc. Khi có hỷ lạc, sự dính mắc có thể phát sinh. Thiền giả không muốn quán chiếu điều gì khác nữa, mà chỉ muốn hưởng thụ cảm giác sung sướng đó. Khi tu hành một thời gian lâu, chúng ta có thể dễ dàng và nhanh chóng nhập vào định này. Ngay khi chúng ta vừa nhận biết đối tượng thiền quán của mình, tâm liền lắng đọng, và chúng ta không muốn xuất định để khảo sát bất cứ điều gì nữa. Chúng ta cứ kẹt vào trạng thái hỷ lạc này. Hiểm họa là chỗ đó.

Chúng ta phải sử dụng cận định. Ở đây, chúng ta bước vào trạng thái bình an, và rồi, khi tâm đủ bình an, chúng ta xuất định và xem xét những sinh hoạt bên ngoài. Xem xét thế giới bên ngoài với một cái tâm tĩnh lặng sẽ dẫn đến sự phát sinh trí huệ. Điều này hơi khó hiểu, bởi vì nó gần giống những sự suy nghĩ thường nhật. Khi sự suy nghĩ hiện diện, chúng ta có thể cho rằng tâm không bình an, nhưng thật ra sự suy nghĩ đang xảy ra bên trong sự bình an. Sự quán chiếu vẫn ở đó, nhưng nó không quấy nhiễu sự bình an. Chúng ta có thể mang sự suy nghĩ lên để có thể quán chiếu nó, khảo sát nó.

Không phải chúng ta đang suy nghĩ một cách vô định, mà sự quán chiếu phát sinh từ cái tâm bình an. Đây gọi là sự “nhận biết trong sự an định và sự an định trong sự nhận biết”. Nếu đó chỉ là sự suy nghĩ bình thường, tâm sẽ không bình an. Nó bị quấy nhiễu. Nhưng tôi không nói đến sự suy nghĩ bình thường. Nó là sự quán chiếu. Trí huệ phát sinh ngay tại đây.

Cho nên, có loại thiền định đúng và có loại thiền định sai. Thiền định sai là khi tâm bước vào trạng thái an định mà không có sự nhận biết nào cả. Bạn có thể ngồi hàng giờ hay suốt ngày, nhưng tâm không biết nó đang ở đâu hay điều gì đã xảy ra. Có sự an định, nhưng chỉ bấy nhiêu thôi. Nó giống như một con dao bén nhưng chúng ta không màng sử dụng. Đây là một sự an định hư ảo, bởi nó có quá ít sự nhận biết. Thiền giả có thể nghĩ rằng họ đã đạt đến chỗ rốt ráo, nên không màng xem xét những thứ khác. Thiền định ở mức độ này có hại hơn là có lợi. Trí huệ không thể phát sinh bởi không có sự nhận biết giữa cái đúng và cái sai.

Với sự thiền định đúng đắn, bất kể mức độ an định là gì, đều có sự nhận biết ở đó. Có sự chánh niệm hoàn toàn và nhận biết rõ ràng. Đây là loại định có thể phát sinh trí huệ, và không ai có thể bị lạc hướng. Thiền giả nên hiểu biết điều này. Bạn không thể xem thường sự nhận biết này; nó phải hiện diện từ đầu đến cuối. Đây là loại định không nguy hiểm.

Có thể bạn không rõ là trí huệ phát sinh từ thiền định ra sao. Khi loại định đúng được phát triển, trí huệ có cơ hội để phát sinh vào bất cứ lúc nào - trong mọi tư thế. Khi mắt nhìn thấy hình sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị của thức ăn, thân thể cảm nhận một sự xúc chạm, hay tâm kinh nghiệm một ấn tượng tâm trí, tâm luôn hiểu biết rõ ràng bản chất thực của những ấn tượng này, và không chạy theo chúng.

Khi tâm có trí huệ, nó không chọn lựa. Trong bất cứ tư thế nào, chúng ta cũng nhận biết rõ ràng về sự sinh khởi của hạnh phúc và đau khổ. Chúng ta xả bỏ những thứ này; chúng ta không bám víu. Đây là sự tu hành đúng đắn mà chúng ta thực hiện trong tất cả tư thế. Tất cả tư thế không chỉ đề cập đến những tư thế của thân thể thôi, mà còn bao gồm cả tâm - một cái tâm có Chánh Niệm và sự hiểu biết chân lý rõ ràng. Khi thiền định được phát triển đúng đắn, trí huệ phát sinh như thế đó. Đây là sự chứng ngộ - sự hiểu biết chân lý.

Có hai loại bình an - thô tạp và vi tế. Sự bình an đến từ thiền định là loại thô tạp. Khi tâm bình an, thì có sự hỷ lạc. Tâm xem cảm giác hỷ lạc này là sự bình an. Nhưng hạnh phúc và đau khổ vẫn nằm trong cảnh giới sinh diệt. Chừng nào chúng ta còn bám víu vào sự hỷ lạc, chúng ta còn chưa thể thoát khỏi luân hồi. Cho nên, hỷ lạc không phải là sự bình an. Sự bình an không phải là hỷ lạc.

Loại bình an kia là cái đến từ trí huệ. Ở đây, chúng ta không nhầm lẫn sự bình an với sự hỷ lạc.

Chúng ta thấy rằng cái tâm trí huệ - cái quán chiếu và nhận biết sự hỷ lạc và đau khổ - là bình an. Tâm bình an phát sinh từ trí huệ sẽ nhìn thấy chân lý của cả hai thứ hỷ lạc và đau khổ. Sự bám víu vào những trạng thái này không phát sinh, tâm vượt lên trên chúng. Đây là mục tiêu chân chánh của mọi hành giả tu hành theo Phật Pháp.


Chương 14

Điều phục tâm


Ăn ít. Ngủ ít. Nói ít.
Không làm theo 
ý muốn của mình.
Không buông thả trong 
tư tưởng của mình
Ngừng tất cả sự tuân thủ 
mù quáng này.
Bạn phải luôn đi ngược 
dòng vô minh.
Đây gọi là kỷ luật.


Vào thời của Ajahn Mun và Ajahn Sao, đời sống giản dị hơn, ít phức tạp hơn bây giờ rất nhiều. Vào thời đó, chư tăng có ít bổn phận và lễ nghi. Họ sống trong rừng và không có chỗ nghỉ ngơi cố định. Họ có thể dành hết thời gian của mình để hành thiền. Họ ít khi có được những sự tiện nghi sung túc mà nhiều người xuất gia hưởng thụ vào thời này. Họ tự làm ly nước và ống nhổ từ thân tre. Người tại gia ít khi viếng thăm. Các tăng sĩ không muốn hay không đòi hỏi nhiều và phải chấp nhận những gì họ có. Họ sống và thở trong thiền!

Các tăng sĩ sống rất thiếu thốn. Nếu có ai bị sốt rét và hỏi xin thuốc, vị thầy chỉ nói, “Anh không cần thuốc! Cứ tiếp tục tu hành”. Nói cho đúng, thời đó thuốc men không đầy đủ như bây giờ. Tất cả những gì họ có là những cây thuốc mọc trong rừng. Trong một môi trường như thế, chư tăng phải có sức nhẫn nại và chịu đựng rất lớn; họ không để tâm đến những thân bệnh lặt vặt. Bây giờ thì khác, đụng một chút là họ chạy tới bệnh viện!

Đôi lúc, bạn phải đi bộ trung bình từ 10 cho đến 12 cây số. Bạn rời khỏi tu viện từ sáng sớm tinh mơ và có thể đến gần trưa mới về. Bạn cũng chẳng có được bao nhiêu, có lẽ chỉ một ít xôi, muối, hay vài quả ớt. Dầu bạn có được thứ gì để ăn với cơm hay không cũng không thành vấn đề. Không ai dám than đói hay mệt; họ không thích than phiền mà tập chăm sóc cho mình. Họ tu hành trong rừng với sự nhẫn nại và chịu đựng cùng với nhiều hiểm họa luôn đe dọa ở chung quanh. Có nhiều thú dữ và rất nhiều chướng ngại, cả vật chất lẫn tinh thần, đối với một tu sĩ hạnh đầu đà sống trong rừng. Thật vậy, sự nhẫn nại và chịu đựng của chư tăng thời đó rất cao do hoàn cảnh bắt buộc.

Lối sống hiện nay đẩy chúng ta đi ngược lại. Thời xưa, người ta phải đi bộ, sau này họ có xe ngựa, xe bò, và bây giờ thì xe hơi. Khát vọng và lòng tham gia tăng, cho nên bây giờ, nếu một chiếc xe hơi không có máy điều hòa, bạn không thèm ngồi trong đó - không có máy điều hòa thì làm sao mà đi! Hạnh nhẫn nại và chịu đựng ngày càng sa sút dần. Tiêu chuẩn tu hành và thiền định cũng ngày càng lỏng lẻo. Hành giả thời này chỉ thích chạy theo những ước muốn và ý kiến của họ. Khi người già nói về thời xưa, họ nghe như nghe kể chuyện cổ tích hay chuyện thần thoại. Họ nghe một cách thờ ơ, và không hiểu gì hết. Nó chẳng đi vào trong một chút nào cả.

Theo truyền thống xuất gia thuở xưa của chúng ta, là tăng sĩ, bạn cần phải tu học với vị thầy ít nhất năm năm. Có những ngày, bạn phải tránh nói chuyện hoàn toàn. Không cho phép mình nói nhiều. Không đọc sách. Chỉ đọc chính tâm của mình mà thôi. Lấy thí dụ ở Wat Pah Pong. Ngày nay, nhiều sinh viên tốt nghiệp đại học đến đây xin xuất gia. Tôi cố ngăn cản họ nghiên cứu kinh điển, bởi vì những người này luôn luôn đọc sách. Họ có quá nhiều cơ hội để đọc sách, nhưng cơ hội để đọc chính tâm của họ thì rất hiếm hoi. Cho nên khi họ đến xin xuất gia trong ba tháng theo truyền thống Thái Lan, tôi muốn họ đóng lại tất cả kinh sách. Khi họ xuất gia là khi họ có cơ hội tuyệt vời để đọc chính tâm của mình.

Lắng nghe chính tâm của bạn là một điều rất thú vị. Cái tâm chưa được huấn luyện này chạy loanh quanh theo những thói quen của nó. Nó chạy nhảy lung tung bởi vì nó chưa bao giờ được huấn luyện. Hãy huấn luyện tâm của bạn! Hành thiền theo Phật giáo xoay quanh cái tâm, tập trung vào việc phát triển chính cái tâm của bạn. Chỉ vậy thôi. Một người tu hành để phát triển tâm là người tu hành theo Phật giáo.

Cái tâm này của chúng ta sống trong một cái lồng, và hơn thế nữa, trong lồng đó có một con cọp. Nếu cái tâm vô kỷ luật của chúng ta không có được điều nó muốn, nó sinh sự. Bạn phải kỷ luật nó với thiền, với định. Đây gọi là huấn luyện tâm hay “điều phục tâm”. Lúc mới đầu, sự tu hành là trì giới. Sila là điều phục thân và khẩu. Việc trì giới có thể có thể dẫn đến tình trạng xung đột và rối loạn. Khi bạn không cho phép mình làm những gì mình muốn, sự xung đột phát sinh. Sự xung đột này là giữa trí huệ và phiền não - đó là “sự đau khổ dẫn đến sự chấm dứt khổ đau”.

Ăn ít. Ngủ ít. Nói ít. Không làm theo ý muốn của mình; không đắm chìm trong tư tưởng của mình. Ngừng tất cả sự tuân thủ mù quáng này. Bạn phải luôn đi ngược dòng vô minh. Đây gọi là kỷ luật. Khi bạn kỷ luật tâm của mình, nó trở nên bất bình và bắt đầu chống đối. Nó bị giới hạn và đàn áp. Khi tâm không được phép làm những gì nó muốn, nó bắt đầu đi lung tung và vùng vẫy. Chúng ta cảm thấy khổ sở.

Sự đau khổ này là chân lý đầu tiên của Tứ Diệu Đế. Đa số con người muốn trốn tránh nó. Họ không muốn bất cứ sự đau khổ nào. Thật ra, sự đau khổ này là cái mang đến cho chúng ta trí huệ; nó khiến chúng ta quán xét sự khổ (dukkha). Hạnh phúc (sukha) thường khiến cho chúng ta đóng chặt mắt và tai của mình lại. Nó không cho phép chúng ta phát triển sự nhẫn nại. Sự thoải mái và hạnh phúc khiến chúng ta mất cảnh giác. Trong hai thứ phiền não này, dukkha là cái dễ nhìn thấy nhất. Vì thế, chúng ta phải mang sự đau khổ ra để có thể chấm dứt nó. Trước hết, chúng ta phải biết dukkha là gì trước khi chúng ta biết hành thiền là như thế nào.

Lúc ban đầu, bạn phải điều phục tâm như thế này. Bạn có thể không hiểu điều gì đang xảy ra hay mục đích của nó, nhưng khi vị thầy bảo bạn làm một điều gì, bạn phải làm điều đó. Bạn sẽ phát triển những phẩm hạnh nhẫn nại và chịu đựng. Bất cứ gì xảy ra, bạn nhẫn chịu, bởi vì nó phải là như vậy. Chẳng hạn, khi bạn bắt đầu tu thiền, bạn muốn được bình an và tĩnh lặng. Nhưng bạn chẳng được chút nào cả. Bạn không được chút nào vì bạn không tự hành đúng cách. Tâm bạn nói, “Tôi sẽ ngồi cho đến khi tôi đạt được sự tĩnh lặng”. Nhưng khi sự tĩnh lặng không đến, bạn thấy khổ sở. Và khi thấy khổ sở, bạn đứng dậy và bỏ chạy mất! Tu hành kiểu này không thể gọi là phát triển tâm, mà là ruồng bỏ tâm.

Thay vì chìm đắm trong những cảm thọ của mình, bạn dùng giáo lý của Đức Phật để huấn luyện mình. Biếng nhác hay tinh cần, bạn vẫn tiếp tục tu hành. Như thế này không phải tốt hơn sao? Còn cách kia, cách chạy theo những cảm thọ của bạn, sẽ không bao giờ dẫn bạn tới Chánh Pháp. Nếu bạn tu hành theo Chánh Pháp, thì dầu tâm trạng của bạn là như thế nào, bạn vẫn tiếp tục tu hành, liên tục tu hành. Con đường phóng dật không phải là con đường của Đức Phật. Khi chúng ta chạy theo những thành kiến của mình, những định kiến của mình về Chánh Pháp trên đường tu hành, chúng ta không sao nhìn thấy rõ ràng đâu là đúng, đâu là sai. Chúng ta không biết chính tâm của mình. Chúng ta không biết chính mình.

Cho nên, tu hành theo sự hiểu biết của riêng bạn là con đường chậm chạp. Tu hành theo Chánh Pháp là con đường trực tiếp. Biếng nhác, bạn cũng tu; tinh cần, bạn cũng tu. Bạn ý thức rõ ràng về thời gian và không gian. Đây gọi là sự phát triển tâm.

Nếu bạn bám chặt vào những quan điểm của mình và tu hành dựa theo đó, bạn sẽ bắt đầu suy nghĩ và nghi ngờ rất nhiều. Bạn sẽ nghĩ, “Mình không có nhiều phước báu. Mình không đạt được gì cả. Mình hành thiền đã nhiều năm rồi mà vẫn chưa khai ngộ, vẫn chưa đắc đạo”. Tu hành với thái độ như thế không thể gọi là phát triển tâm. Đó gọi là phát triển tai họa.

Nếu đó là điều bạn đang làm - nếu bạn là một thiền giả chưa biết, chưa nhìn thấy, chưa đổi mới chính mình - đó là bởi vì bạn tu hành sai cách. Bạn không làm theo lời dạy của Đức Phật. Đức Phật dạy như vầy: “Ananda, hãy tu tập thật nhiều! Không ngừng tiến bộ. Và rồi tất cả những nghi vấn của ngươi sẽ tan biến”. Và những nghi vấn của bạn sẽ không bao giờ tan biến qua sự suy tư, lý luận, phỏng đoán, hay bàn bạc. Nghi vấn của bạn cũng sẽ không biến mất nếu bạn không làm gì cả. Tất cả phiền não chỉ dứt tuyệt xuyên qua sự phát triển tâm, qua sự tu hành đúng cách.

Con đường phát triển tâm như Đức Phật chỉ dạy là con đường đi ngược lại thế gian, bởi vì sự giảng dạy của ngài xuất phát từ cái tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh, không còn phiền não, là con đường của Đức Phật và các môn đệ của ngài.

Bổn phận của thiền giả là duy trì Chánh niệm, sự trầm tĩnh, và tri túc. Những thứ này kiềm chúng ta lại. Chúng chặn đứng những thói quen trong tâm của những kẻ chưa được huấn luyện. Và tại sao chúng ta phải làm thế? Nếu bạn không muốn huấn luyện tâm, nó cứ buông lung, phóng túng mãi. Nhưng bạn có thể huấn luyện nó để làm lợi cho bạn. Bạn có thể so sánh điều này với việc sử dụng cây cối. Nếu chúng ta để cây cối phát triển tự nhiên, thì chúng ta sẽ không thể dùng chúng để xây cất một căn nhà. Chúng ta không thể làm ván hay bất cứ thứ gì dùng trong việc xây cất nhà.

Nhưng nếu một người thợ mộc muốn xây một căn nhà, ông phải đi tìm cây. Ông ta dùng nguyên liệu này một cách hữu ích, và không bao lâu thì ông xây xong căn nhà.

Thiền và phát triển tâm cũng tương tự như thế. Bạn phải sử dụng tâm này, như bạn dùng một cái cây trong rừng, và tôi luyện nó để nó trở nên thanh nhẹ hơn, ý thức hơn về chính nó, mẫn cảm hơn. Mọi thứ đều ở trong trạng thái thiên nhiên của nó. Khi chúng ta hiểu biết thiên nhiên, chúng ta có thể thay đổi nó. Chúng ta có thể tách rời khỏi nó và buông bỏ. Rồi chúng ta sẽ không còn đau khổ.

Bản chất của tâm là, nó bám víu và dính mắc vào nơi nào thì nơi đó có sự hiếu động và rối loạn. Mới đầu, nó lang thang qua bên kia, rồi nó lang thang qua bên này. Khi chúng ta bắt đầu quan sát sự hiếu động này, chúng ta có thể cho rằng huấn luyện tâm là điều không thể thực hiện, và vì thế chúng ta đau khổ. Chúng ta không hiểu rằng đây là đường lối của tâm. Tư tưởng và cảm xúc sẽ đi tới đi lui như thế ngay cả khi chúng ta đang ngồi thiền để cố đạt được sự bình an. Nó là như vậy thôi.

Khi chúng ta kiên trì quán chiếu bản chất của tâm, chúng ta sẽ hiểu rằng tâm là như thế và không thể khác hơn. Đó là bản chất của nó. Nếu chúng ta nhận rõ điều này, chúng ta có thể tách rời khỏi mọi tư tưởng và cảm xúc. Khi tâm thật sự hiểu biết, nó buông bỏ tất cả. Sự suy nghĩ và cảm xúc vẫn còn đó, nhưng sự suy nghĩ và cảm xúc đó không còn thực lực.

Điều này tương tự như một đứa trẻ ham chơi và đùa giỡn trong những cách làm cho chúng ta khó chịu, đến độ chúng ta phải la hay đánh nó. Nhưng nếu chúng ta hiểu rằng đó là bản chất của một đứa trẻ, chúng ta có thể xả bỏ và để chúng chơi đùa tự nhiên. Và rồi vấn đề của chúng ta biến mất. Tại sao nó biến mất? Bởi vì chúng ta chấp nhận đường lối của trẻ con. Quan điểm của chúng ta thay đổi và chúng ta chấp nhận bản chất của sự việc. Chúng ta xả bỏ và tâm chúng ta trở nên bình an hơn. Chúng ta có Chánh Kiến.

Nếu chúng ta hiểu biết sự sai lạc, thì dầu có sống ở nơi thâm sơn cùng cốc, đời sống của chúng ta cũng vẫn rối rắm, phiền não. Tâm chỉ có thể bình an khi có Chánh Kiến. Rồi chúng ta sẽ không còn nghi nan để tháo gỡ, không còn vấn đề để giải quyết.

Nó là như thế. Bạn tách rời. Bạn xả bỏ. Mỗi khi sự dính mắc phát sinh, chúng ta tách rời khỏi nó, bởi vì chúng ta biết rằng cái cảm giác đó chỉ là vậy thôi. Nó không đến với mục đích quấy nhiễu chúng ta. Chúng ta có thể cho rằng nó làm thế, nhưng thật sự thì nó chỉ là vậy thôi. Nếu chúng ta bắt đầu suy nghĩ và xem xét nó thêm nữa, thì hành động đó cũng chỉ là vậy thôi. Nếu chúng ta xả bỏ, thì sắc chỉ là sắc, thanh chỉ là thanh, hương chỉ là hương, vị chỉ là vị, xúc chỉ là xúc, và tâm chỉ là tâm. Nó tương tự như dầu và nước. Nếu bạn đặt hai thứ này lại với nhau trong một ly, chúng không trộn lẫn bởi vì bản chất của chúng khác nhau.

Sự khác biệt giữa dầu và nước cũng giống như sự khác biệt giữa một kẻ trí và một người ngu. Kẻ trí buông bỏ những thứ này dần dần. Kẻ ấy hiểu rõ tâm là tâm và tư tưởng là tư tưởng. Họ không trộn lẫn chúng với nhau.

Tâm là tâm; tư tưởng và cảm xúc là tư tưởng và cảm xúc. Hãy để sự việc tự nhiên như vậy. Hãy để sắc chỉ là sắc, âm thanh chỉ là âm thanh, tư tưởng chỉ là tư tưởng. Tại sao chúng ta phải tách rời khỏi chúng? Nếu chúng ta đã suy nghĩ và cảm thấy như thế rồi, chúng ta đã có sự tách rời và xả bỏ. Tư tưởng và cảm xúc của chúng ta sẽ ở một bên và tâm chúng ta ở bên kia. Giống như dầu và nước, chúng ở trong cùng một ly nước, nhưng chúng tách rời nhau.

Đức Phật và những môn đồ khai ngộ của ngài sống chung với những người chưa khai ngộ. Họ không chỉ sống với những người này, mà họ còn dạy dỗ những người chưa khai ngộ, chưa hiểu biết cách này để trở thành những thánh nhân khai ngộ, khôn ngoan, và cao thượng. Họ có thể làm thế bởi vì họ biết cách tu hành. Họ biết rằng đó chỉ là vấn đề của tâm, như tôi vừa giải thích.

Cho nên, trong sự hành thiền của bạn, đừng nghi ngờ gì cả. Nếu chúng ta bỏ nhà chạy tới đây để thọ Pháp, chúng ta không bỏ chạy để rồi bị sai đường lạc lối. Cũng không phải chúng ta làm vậy vì sợ hãi hay hèn nhát. Chúng ta bỏ chạy để có thể huấn luyện chính mình, để có thể làm chủ chính mình. Nếu chúng ta hiểu điều này, thì chúng ta có thể đi theo Phật Pháp. Phật Pháp sẽ trở nên rõ ràng hơn mỗi ngày. Những ai hiểu Pháp là hiểu chính mình, và những ai hiểu chính mình là hiểu Pháp. Thời nay, chỉ những phần lý thuyết khô khan là được chấp nhận. Trên thực tế, Pháp ở khắp mọi nơi. Chúng ta không cần phải trốn chạy tới một nơi nào khác. Thay vì thế, hãy trốn chạy xuyên qua trí huệ. Trốn chạy xuyên qua sự khôn ngoan. Đừng trốn chạy xuyên qua sự vô minh. Nếu bạn muốn sự bình an, hãy để nó là sự bình an của trí huệ. Vậy là đủ.

Mỗi khi chúng ta có sự chứng ngộ, chúng ta có Chánh Đạo, chúng ta đi đúng đường. Phiền não là phiền não; tâm là tâm. Mỗi khi chúng ta xả bỏ và tách rời để chỉ còn lại những thứ này, thì lúc đó chúng chỉ là những vật thể khách quan đối với chúng ta. Khi chúng ta đi đúng đường, chúng ta không thể phạm lỗi. Khi chúng ta không thể phạm lỗi, chúng ta luôn cởi mở và tự tại.

Đức Phật nói, “Tăng chúng, hãy lắng nghe. Các người không được dính mắc vào bất cứ Pháp nào”. Những Pháp này là gì vậy? Chúng là tất cả mọi thứ; không có gì không phải là Pháp. Tình thương và thù hận là Pháp, hạnh phúc và đau khổ là Pháp, thích và không thích là Pháp; tất cả những thứ này, bất kể nó vô nghĩa đến chừng nào, cũng đều là Pháp. Khi chúng ta tu hành, khi chúng ta hiểu biết, thì chúng ta có thể xả bỏ. Và vì thế chúng ta có thể tuân theo lời dạy của Phật, đó là không dính mắc vào bất cứ Pháp nào.

Mọi nhân duyên đều khởi sinh trong tâm của chúng ta, mọi nhân duyên của tâm, mọi nhân duyên của thân đều không ngừng thay đổi. Đức Phật bảo chúng ta đừng dính mắc vào những thứ này. Ngài dạy các đệ tử tu hành để có thể dứt trừ những điều kiện, chứ không phải để có thêm những thứ này.
Nếu chúng ta làm theo lời dạy của Đức Phật, thì chúng ta đúng. Chúng ta đúng, nhưng nó cũng phiền phức. Không phải sự giảng dạy của Đức Phật là phiền phức, mà những phiền não của chúng ta mới là phiền phức. Hiểu sai, phiền não che mờ chúng ta và gây phiền phức cho chúng ta. Không có gì thực sự là phiền phức với việc làm theo lời dạy của Đức Phật. Vả lại, chúng ta có thể nói rằng dính mắc vào Đạo không mang đến đau khổ, bởi vì Đạo chỉ là sự xả bỏ tất cả các Pháp.

Xả bỏ là sự tu hành rốt ráo của Phật giáo. Đừng mang theo một thứ gì. Tách rời tất cả. Nếu bạn nhìn thấy điều thiện, xả bỏ nó. Nếu bạn nhìn thấy điều ác, xả bỏ nó. Chữ xả bỏ không có nghĩa là chúng ta không cần tu hành, mà có nghĩa là chúng ta phải tu hành theo phương pháp xả bỏ chính nó. Đức Phật dạy chúng ta quán chiếu các Pháp, phát huy Đạo xuyên qua sự quán chiếu chính thân và tâm của chúng ta. Đạo không ở đâu khác. Nó ở ngay tại đây. Không ở đâu xa xôi. Nó ở ngay đây trong thân và tâm của chúng ta.

Cho nên, hành giả phải tu hành thành tâm. Hãy làm cho tâm rộng lớn hơn và chiếu sáng hơn. Làm cho nó tự tại và độc lập. Làm điều thiện, nhưng đừng mang nó theo trong tâm bạn; xả bỏ nó. Tránh làm điều ác, và xả bỏ sự kiềm thúc đó luôn. Đức Phật dạy chúng ta sống trong hiện tại, ngay tại đây và bây giờ. Đừng đánh mất mình trong quá khứ hay tương lai.

Giáo lý mà người ta ít hiểu nhất và đi ngược lại phần lớn những quan điểm của họ, chính giáo lý về sự xả bỏ này, về sự làm việc với một cái tâm rỗng không. Lối nói này gọi là “Pháp ngôn”. Khi chúng ta diễn đạt điều này bằng ngôn ngữ thế gian, chúng ta lẫn lộn và nghĩ rằng chúng ta có thể làm bất cứ điều gì mình muốn. Lối diễn giải này không sai, nhưng ý nghĩa thật thì gần giống như vầy: Như thể chúng ta đang mang một tảng đá lớn - sau một lúc chúng ta cảm thấy sức nặng của nó, nhưng chúng ta không biết làm sao để buông bỏ nó, cho nên chúng ta tiếp tục chịu đựng gánh nặng còng lưng này. Nếu có người bảo chúng ta ném nó đi, chúng ta nói, “Nếu tôi ném nó đi, tôi chẳng còn gì hết”. Khi nghe nói về lợi ích của việc quẳng nó đi, chúng ta không tin và cứ suy nghĩ, “Nếu mình ném nó đi, mình sẽ không còn gì hết.” Thế nên, chúng ta tiếp tục mang tảng đá nặng nề này bên mình cho đến khi chúng ta mệt mỏi rã rời. Rồi không chịu nổi nữa, chúng ta thả nó xuống.

Sau khi thả tảng đá xuống, chúng ta sực hiểu ra lợi ích của việc xả bỏ. Chúng ta cảm thấy nhẹ nhõm ngay lập tức, rồi chúng ta tự mình biết được mang một tảng đá như thế là nặng nề đến chừng nào. Trước khi buông bỏ tảng đá, chúng ta không thể biết được lợi ích của sự buông bỏ, chúng ta không nhìn thấy lý do. Một người chưa khai ngộ bám chặt một cách mù quáng vào tảng, không chịu bỏ nó xuống, cho đến khi không chịu nổi nữa, họ mới thả xuống. Chỉ lúc đó, họ mới biết được sự nhẹ nhõm là như thế nào. Chỉ lúc đó, họ mới biết lợi ích của sự buông bỏ. Sau này, chúng ta có thể vác gánh nặng lên lại, nhưng bấy giờ, chúng ta biết hậu quả của nó, cho nên chúng ta có thể buông bỏ dễ dàng hơn. Sự hiểu biết này, rằng mang gánh nặng trên mình là điều không cần thiết và rằng sự xả bỏ dẫn đến cảm giác nhẹ nhàng và thoải mái, là một thí dụ về sự hiểu biết chính mình.

Sự kiêu hãnh của chúng ta, cái bản ngã mà chúng ta lệ thuộc vào, cũng giống như tảng đá nặng nề đó. Khi nghĩ đến việc xả bỏ tánh tự phụ, chúng ta lo sợ rằng không có nó, chúng ta sẽ chẳng còn gì nữa. Nhưng nếu chúng ta có thể xả bỏ nó, chúng ta sẽ biết được cảm giác thanh thản và thoải mái sau đó.

Trong việc điều phục tâm, bạn không được dính mắc vào lời khen tặng lẫn sự chê trách. Muốn được khen ngợi và không bị chê là đường lối của thế gian. Đường lối của Đức Phật là, chấp nhận sự khen tặng hay sự chê trách khi thích đáng. Ví dụ, khi nuôi dạy con, chúng ta không nên la chúng mãi. Có người la mắng quá nhiều. Người khôn biết lúc nào nên la mắng, lúc nào nên khen thưởng. Tâm của chúng ta cũng vậy. Hãy khéo léo nhận biết tâm, khéo léo chăm sóc cho tâm, và khéo léo trong việc điều phục tâm. Khi tâm đã thông thạo, khôn ngoan, nó có thể giải phóng chúng ta khỏi sự khổ đau. Đau khổ nằm ngay tại đây trong tâm của chúng ta. Nó luôn làm cho sự việc phức tạp, làm cho tâm nặng nề. Nó sinh ra ở đây. Nó cũng chết tại đây.

Tâm là như thế này. Đôi lúc nó có tư tưởng tốt, đôi lúc nó có tư tưởng xấu. Tâm gian trá lắm. Đừng tin nó! Thay vì vậy, hãy nhìn thẳng vào những điều kiện của tâm. Chấp nhận chúng như thế đó. Chúng chỉ là vậy thôi. Dầu xấu hay tốt hay bất cứ gì, nó là thế thôi. Nếu bạn không dính mắc vào những điều kiện này, chúng không trở thành điều gì khác hơn bản chất tự nhiên của chúng. Nếu chúng ta dính mắc vào đó, chúng ta sẽ bị đau khổ.

Với Chánh Kiến, thì chỉ có sự bình an. Định phát sinh và trí huệ làm chủ. Nơi nào bạn ngồi hay nằm, nơi đó có sự bình an. Và bất kể bạn đi tới đâu, ở đó cũng bình an.

Cho nên hôm nay bạn lắng nghe Pháp. Có điều bạn hiểu, có điều có thể bạn không hiểu. Dầu bạn cho rằng một điều nào đó là đúng hay sai, bạn nên tiếp nhận nó và suy ngẫm một chút.

Là một vị thầy, tôi đã trải qua tình trạng tương tự. Tôi cũng từng khao khát nghe Pháp bởi vì, đi đến đâu, tôi cũng thuyết giảng cho người khác nhưng chưa bao giờ có cơ hội để lắng nghe. Cho nên bạn thật sự trân quý cơ hội được nghe Pháp. Thời gian trôi nhanh khi bạn ngồi yên lặng lắng nghe. Bạn khao khát Pháp, cho nên bạn thật sự muốn nghe. Mới đầu, bạn rất thích giảng dạy người khác, nhưng sau một thời gian, cảm giác thích thú đó tan biến. Bạn cảm thấy chán và mệt. Rồi bạn muốn được nghe. Thế nên khi bạn nghe một vị thầy thuyết giảng, bạn cảm thấy rất say mê và bạn hiểu dễ dàng. Nhất là khi bạn đã già và khao khát sự khai ngộ, bạn càng thấy Pháp thấm thía hơn rất nhiều.

Là một vị thầy, bạn làm gương cho người khác. Bạn là mẫu mực cho những tỳ kheo khác. Bạn làm gương cho mọi người, cho nên đừng quên mất chính mình. Nhưng cũng đừng nghĩ về mình. Nếu những tư tưởng như thế phát sinh, dứt bỏ chúng. Nếu bạn làm thế, bạn sẽ là người biết chính mình.

Có hàng triệu cách để tu hành. Nói về sự thiền định thì nói mãi cũng không hết. Có quá nhiều thứ có thể khiến cho chúng ta nghi ngờ. Chỉ việc quét chúng ra ngoài, rồi bạn sẽ không còn nghi ngờ nữa! Khi chúng ta có Chánh Kiến như thế này, bất kể chúng ta ngồi hay đi, chúng ta bình an và thanh thản. Chúng ta hành thiền ở đâu, thì mang sự nhận biết của mình tới đó. Đừng nghĩ rằng bạn chỉ thiền khi ngồi hay đi. Mọi thứ và mọi nơi đều là sự tu hành của chúng ta. Sự nhận biết luôn ở đó. Sự Chánh niệm luôn hiện diện. Chúng ta luôn có thể nhìn thấy sự sinh diệt của thân và tâm. Đừng để nó làm bận tâm bạn. Xả bỏ nó liên tục. Nếu tình thương đến, để nó trở về nhà của nó. Nếu lòng tham đến, để nó về nhà. Nếu sự tức giận đến, để nó về nhà. Chúng sống ở đâu vậy? Hãy tìm ra, và rồi đưa chúng về đó. Đừng giữ lại điều gì cả. Nếu bạn tu hành như vậy, bạn giống như một căn nhà trống. Hay, nói cách khác, đây là một cái tâm trống rỗng, một cái tâm không còn điều ác nào cả. Chúng ta gọi đó là “tâm không”. Nhưng tâm đó không trống rỗng như thế không có gì cả; nó trống rỗng điều ác nhưng chưa đầy trí huệ. Và rồi bất cứ bạn làm gì, bạn làm với trí huệ. Bạn suy nghĩ với trí huệ. Bạn ăn với trí huệ. Chỉ có trí huệ mà thôi.

Đây là bài pháp cho ngày hôm nay và tôi tặng nó cho bạn. Bài pháp này đã được thâu băng. Nếu nghe pháp khiến cho tâm bạn bình an, vậy cũng đủ rồi. bạn không cần phải nhớ điều gì. Có người, không tin điều này. Nếu chúng ta làm cho tâm mình bình an và chỉ lắng nghe, để lời pháp đi qua nhưng vẫn suy ngẫm mãi, thì chúng ta sẽ giống như một cái máy thâu âm. Sau này, khi chúng ta bật nó lên, mọi thứ vẫn còn đó. Đừng sợ là bạn sẽ không có gì cả. Mỗi khi bạn bật máy thâu âm lên, mọi thứ vẫn ở đó.

Tôi muốn tặng bài pháp này tới tất cả tỳ kheo và mọi người. Có người trong số các bạn chỉ biết chút ít tiếng Thái, nhưng điều đó không quan trọng. Mong rằng các bạn hiểu được ngôn ngữ của Đạo. Như vậy là đủ rồi!



Chương 15

Nhận biết tâm


Nếu chúng ta hiểu biết 
và thấy rõ bản chất của 
thân tâm mình, mọi 
nghi vấn về những 
người khác sẽ tan biến.
Đây là bởi vì thân và tâm 
của mọi người đều như nhau.


Đường lối tu hành của chúng ta đòi hỏi việc xem xét và làm sáng tỏ sự việc. Chúng ta kiên trì, nhưng không hối hả. Và cũng không chậm chạp. Chúng ta chỉ tự nhiên nhận biết và thấu suốt dần dần. Tuy nhiên, tất cả những điều này dẫn tới một điều gì đó. Sự tu hành của chúng ta có một mục tiêu.

Đối với đa số chúng ta, sự tu hành xuất phát từ sự ham muốn. Ở giai đoạn này, sự ham muốn của chúng ta là sự ham muốn sai lạc. Nó bị lừa. Nó là sự ham muốn đi chung với sự hiểu biết sai lạc.

Nếu sự ham muốn không đi chung với sự hiểu biết sai lạc, thì chúng ta nói rằng nó là sự ham muốn với trí huệ. Nó không hư ảo. Nó là sự ham muốn với Chánh Kiến. Trong trường hợp này, chúng ta nói rằng người đó có Đạo hạnh sâu dày (phẩm hạnh tâm linh tích lũy từ tiền kiếp). Nhưng không phải ai cũng vậy.

Có người không muốn có bất cứ ham muốn nào bởi vì họ nghĩ rằng mục đích tu hành của chúng ta là dứt trừ mọi ham muốn. Nhưng nếu không có sự ham muốn, thì không ai tu hành cả.

Đức Phật và tất cả môn đệ của ngài tu hành để chấm dứt phiền não. Chúng ta phải muốn tu hành và phải muốn chấm dứt phiền não. Chúng ta phải muốn có sự bình an nội tâm và muốn không còn rối rắm. Tuy nhiên, nếu cái muốn này đi chung với sự hiểu biết sai lạc, nó sẽ chỉ gây thêm phiền phức cho chúng ta. Thành thật mà nói, chúng ta không biết cái gì cả. Hoặc là, những gì chúng ta biết không giúp ích được gì cả, bởi chúng ta không biết cách sử dụng nó.

Mọi người, kể cả Đức Phật, đều khởi đầu như thế này, với ước muốn tu hành - muốn có sự bình an nội tâm và muốn không còn sự rối rắm và đau khổ. Hai loại ham muốn này giống như nhau. Nếu không hiểu, thì cả hai điều này - cái muốn thoát khỏi sự rối rắm và cái muốn không bị đau khổ - đều là phiền não. Chúng ta là sự ham muốn không có trí huệ.

Trong sự tu hành ở đây, chúng ta không xem sự ham muốn này là sự phóng dật hay ép xác. Chính Đức Phật, vị thầy của chúng ta, đã từng rơi vào tình huống mâu thuẫn, tiến thoái lưỡng nan này. Những pháp môn tu hành mà Ngài theo đuổi trong thời gian đầu chỉ đẩy Ngài vào một trong hai thái cực này. Và bây giờ cũng vậy. Chúng ta vẫn bị kẹt vào đó, và vì thế mà chúng ta cứ đi lạc khỏi Đạo.

Tuy nhiên, mới đầu ai cũng vậy. Chúng ta bắt đầu là những phàm phu, là những chúng sinh đầy phiền não, với những ước muốn không có trí huệ, với những ham muốn không có Chánh Kiến. Nếu chúng ta thiếu sự hiểu biết thích đáng, thì cả hai loại ham muốn đó chống lại chúng ta. Bất kể đó là cái muốn hay không - muốn, nó vẫn là sự ham muốn.

Nếu chúng ta không hiểu hai thứ này, chúng ta sẽ không biết cách đối phó với chúng khi chúng phát sinh. Chúng ta có cảm tưởng như đi tới cũng sai mà đi lui cũng sai, nhưng chúng ta không làm sao dừng được. Có làm gì đi nữa, chúng ta cũng cứ muốn có thêm mãi. Đây là do sự ham muốn và thiếu trí huệ.

Ngay tại đây, với cái muốn và không - muốn này, mà chúng ta có thể hiểu Đạo. Cái Đạo mà chúng ta tìm kiếm hiện hữu ngay đây, nhưng chúng ta không nhìn thấy nó. Thay vì thế, chúng ta cố gắng chặn đứng lòng ham muốn. Chúng ta muốn sự việc xảy ra theo cách này thay vì cách kia. Hoặc là chúng ta muốn chúng không phải như thế này mà là như thế kia. Thật ra, cả hai thứ này đều như nhau. Chúng ta là một phần của thể nhị nguyên.

Có lẽ chúng ta không nhận ra rằng Đức Phật và các môn đệ của Ngài cũng từng có sự ham muốn này. Tuy nhiên, Đức Phật thấu suốt cái muốn và không - muốn. Ngài hiểu rằng chúng chỉ là những động thái của tâm, rằng những thứ này chỉ xuất hiện trong chớp nhoáng rồi biến mất. Khi có trí huệ, chúng ta không đồng hóa mình với chúng - chúng ta không dính mắc vào đó. Bất kể đó là sự muốn hay không - muốn, chúng ta chỉ nhận biết nó là như thế - chỉ là những động thái của tâm thiên nhiên.



Trí huệ trong đời sống


Chính từ đây mà Pháp Thiền quán dẫn chúng ta tới sự hiểu biết. Thử suy ngẫm một thí dụ về một ngư dân đang kéo một mẻ lưới với một con cá thật lớn trong đó. Bạn biết ông ta cảm giác như thế nào không? Vì sợ con cá tẩu thoát, ông hối hả vật lộn với mẻ lưới, giữ chặt nó và giật mạnh. Nhưng khi nhìn lại, ông mới biết là con cá đã tẩu thoát - thật là phí công nhọc sức.

Ngư dân thường nói chuyện kiểu này. Họ nói rằng chúng ta nên thu lưới từ từ, thận trọng kéo cá lên và không đánh mất nó. Sự tu hành của chúng ta cũng vậy. Chúng ta dò dẫm từ từ, thận trọng kéo tâm lại và không để lạc mất nó. Đôi lúc chúng ta không có cảm giác là mình đang làm thế. Có lẽ chúng ta không muốn nhìn hay không muốn biết, nhưng chúng ta đang tiếp tục với nó. Chúng ta tiếp tục tìm kiếm nó. Đây là sự tu hành: nếu chúng ta cảm thấy như mình đang làm thế, tiếp tục làm, và nếu chúng ta không cảm thấy mình đang làm thế, cứ tiếp tục như thường. Cứ tiếp tục.

Nếu chúng ta thành tâm, đức tin sẽ cho chúng ta năng lượng để tiếp tục tu hành. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, chúng ta vẫn chưa có trí huệ. Dầu chúng ta có hăng say bao nhiêu, chúng ta cũng sẽ không gặp hái được nhiều từ sự tu hành của mình. Nhưng có thể chúng ta sẽ tiếp tục trong một thời gian dài, và đôi lúc có cảm giác như thể mình không đi tới đâu cả. Chúng ta có thể nghĩ rằng chúng ta không tìm thấy sự bình an và tĩnh lặng, hay rằng chúng ta không đủ kiến thức để tu hành. Hoặc có thể chúng ta cảm thấy rằng Pháp môn này không thích hợp với chúng ta nữa. Và rồi chúng ta bỏ cuộc.

Thời điểm này là lúc mà chúng ta phải hết sức thận trọng, phải hết sức nhẫn nại và chịu đựng. Giống như việc kéo một mẻ cá lớn, chúng ta dò dẫm từ từ. Chúng ta kéo nó lên một cách thận trọng. Sự tranh đấu này không khó khăn lắm, cho nên chúng ta kiên trì. Cuối cùng, con cá sẽ mệt mỏi, ngừng kháng cự, và chúng ta có thể bắt nó dễ dàng. Thường thì sự tu hành là như vậy đó. Chúng ta tập kéo tâm lại từ từ.

Đây là cách mà chúng ta thiền quán. Nếu chúng ta không có một kiến thức đặc biệt nào về khía cạnh lý thuyết, chúng ta thiền quán dựa vào kinh nghiệm hàng ngày của mình. Chúng ta dùng kiến thức sẵn có của mình, kiến thức rút tỉa từ kinh nghiệm sống hàng ngày của chúng ta. Đây là loại kiến thức quen thuộc với tâm. Thật ra, dầu chúng ta có nghiên cứu giáo lý hay không, chúng ta đã sẵn có cái thực tại của tâm ngay tại đây. Tâm là tâm dầu chúng ta có hiểu biết nó hay không. Đó là tại sao chúng ta nói rằng dầu Đức Phật có sanh vào thế gian này hay không, bản chất của vạn pháp cũng vẫn vậy. Tính chất bẩm sinh này không thay đổi và cũng không đi đến đâu cả. Nó chỉ là vậy. Đây là chân lý. Nếu chúng ta không hiểu chân lý này, chúng ta sẽ không thể nhận ra nó.




Sự tinh cần


Cho đến khi chúng ta có thể dừng tâm của mình lại, cho đến khi chúng ta đạt đến sự tĩnh lặng, tâm sẽ tiếp tục như trước. Vì lý do này mà Đức Phật dạy, “Cứ tiếp tục tu hành. Hãy kiên trì”. Có lẽ chúng ta sẽ nghĩ, “Nếu tôi vẫn chưa hiểu, làm sao tôi có thể tiếp tục?” Nhưng chừng nào chúng ta chưa tu hành đến nơi, trí huệ sẽ không phát sinh. Cho nên vị thầy mới nói, “Cứ tiếp tục”. Nếu chúng ta tu hành không ngừng nghỉ, chúng ta sẽ bắt đầu xem xét sự tu hành của mình.

Không có gì xảy ra lập tức, cho nên lúc đầu, chúng ta không thể nhìn thấy kết quả của sự tu hành. Đây cũng giống như trường hợp một người đàn ông cố mồi lửa bằng cách cọ xát hai que củi với nhau. Ông ta tự nhủ, “Họ nói nó sẽ có lửa mà”, nên ông cọ xát rất mạnh. Ông rất năng nổ. Nhưng ông thiếu kiên nhẫn. Ông muốn có lửa, nhưng ông cọ một hồi mà vẫn không thấy lửa, ông chán nản và ngừng lại nghỉ ngơi một chút. Một lát sau, ông lại bắt đầu từ đầu, nhưng que củi chưa đủ nóng, thì ông lại nghĩ. Và rồi sức nóng tan mất. Ông không cọ xát đủ lâu, ông chỉ cọ xát cho đến khi thấy mệt thì ngừng lại. Không chỉ mệt thôi, mà ông càng lúc càng trở nên thất vọng, nên cuối cùng ông bỏ cuộc. “Có thấy lửa gì đâu!” Thật ra, ông đang nhóm lửa đó, nhưng chỉ vì không có đủ sức nóng nên lửa không bắt. Lửa vốn sẵn ở đó, chỉ là ông không nhẫn nại mà thôi.

Cũng vì vậy mà nhiều hành giả chán nản, và chạy lăng xăng từ pháp tu này đến pháp tu khác. Ai cũng trải qua kinh nghiệm này. Tại sao? Bởi vì chúng ta vẫn còn phiền não. Đức Phật cũng có phiền não, nhưng Ngài đồng thời có trí huệ. Khi còn sống trong thế gian, Đức Phật và các A-la-hán cũng giống như chúng ta. Là phàm phu, chúng ta suy nghĩ sai lạc. Khi sự muốn phát sinh, chúng ta không nhìn thấy nó, và khi sự không-muốn phát sinh, chúng ta cũng không nhận ra. Có lúc chúng ta cảm thấy bức xúc, có lúc chúng ta cảm thấy hài lòng. Khi sự không-muốn phát sinh, chúng ta có đôi chút hài lòng, nhưng cũng có sự rối rắm. Khi sự muốn phát sinh, đây có thể là một kiểu hài lòng và rối rắm khác. Chúng cứ trộn lẫn như thế.



Biết mình, biết người


Đức Phật dạy chúng ta quán chiếu thân thể của mình, chẳng hạn như tóc, lông, móng tay, răng, da. Vị thầy bảo chúng ta khảo sát ngay nơi đây. Nếu chúng ta không nhận rõ bản chất của những thứ này, chúng ta không thể hiểu những người khác. Chúng ta không biết người, không biết mình. Tuy nhiên, nếu chúng ta hiểu biết và nhận rõ bản chất của thân tâm mình, mọi nghi vấn về những người khác sẽ tan biến. Đây là bởi vì thân và tâm của mọi người đều như nhau. Chúng ta không cần phải quán sát thân thể của tất cả mọi người, bởi chúng cũng giống như thân thể của chúng ta. Nếu chúng ta hiểu được như vậy, gánh nặng của chúng ta sẽ giảm bớt. Không có sự hiểu biết này, tất cả những gì chúng ta làm chỉ là tăng thêm gánh nặng của mình mà thôi.

Giới luật của chúng ta cũng vậy. Chúng ta cảm thấy giới luật của mình rất khó. Chúng ta phải nghiêm trì mỗi một giới, nghiên cứu mỗi một giới, xem xét sự tu hành của chúng ta đối với mỗi giới như thế. Chúng ta có thể nghĩ, “Ồ, khó làm quá!” Đọc cả rừng giới luật, rồi chúng ta nghĩ rằng không cách gì chúng ta có thể giữ hết những giới này. Không thể nào. Có quá nhiều giới.

Kinh sách nói rằng chúng ta phải xem xét chính mình đối với mỗi một giới luật. Chúng ta phải biết tất cả mọi giới và nghiêm trì mỗi giới. Đây cũng giống như nói rằng để hiểu những người khác, chúng ta phải xem xét mỗi một người đó. Thế thì nặng nề quá. Và nó nặng nề bởi vì chúng ta chỉ hiểu nó trên bề mặt, bởi vì chúng ta theo sát kinh điển trên mặt chữ. Có vài vị thầy dạy theo kiểu đó - tuân thủ nghiêm ngặt tất cả những gì viết trong sách vở. Không thể làm như thế được. Nếu chúng ta biết cách canh phòng tâm của mình, thì điều này cũng giống như việc tuân giữ cả rừng giới luật.

Thực ra, nếu chúng ta nghiên cứu giáo lý kiểu này, chúng ta tu hành sẽ không tiến bộ. Chúng ta mất niềm tin đối với Đạo. Đó là bởi vì chúng ta chưa hiểu. Khi có trí huệ, chúng ta sẽ hiểu rằng tất cả mọi người trên thế giới chung quy chỉ là một người này. Cho nên chúng ta chỉ cần nghiên cứu và quán chiếu chính thân tâm của mình là đủ. Với cái thấy và hiểu biết bản chất của thân tâm mình, sự hiểu biết về thân tâm của mọi người sẽ theo sau đó. Tu hành theo cách này sẽ nhẹ nhàng hơn.

Đức Phật nói chúng ta phải làm thầy của chính mình - không ai khác có thể làm điều đó cho bạn. Khi chúng ta quán chiếu và hiểu biết sự hiện hữu của chính mình, chúng ta sẽ hiểu biết bản chất của mọi pháp hữu vi. Mọi người đều giống nhau. Chúng ta đều có cùng “chất liệu” và đến từ một xưởng chế biến - chỉ có màu da của chúng ta là khác nhau thôi, và chỉ bấy nhiêu thôi! Giống như hai nhãn hiệu thuốc trị đau nhức, cả hai đều làm cùng một việc, nhưng một hiệu có tên là thế này, và hiệu kia, có tên khác. Nhưng thật sự thì không có gì khác biệt cả.

Bạn sẽ nhận ra rằng lối quán chiếu sự việc kiểu này trở nên dễ dàng hơn mỗi ngày khi bạn tiếp tục tu hành. Chúng ta sẽ trở nên thông thạo dần. Cứ tiếp tục tu hành cho đến khi chúng ta đạt đến sự hiểu biết này, và rồi chúng ta sẽ nhìn thấy thực tại một cách rõ ràng.


^^^

Lý thuyết và thực hành


Chúng ta tiếp tục tu hành như thế này cho đến khi chúng ta cảm nhận phương hướng của mình. Sau một thời gian, tùy vào khuynh hướng và căn cơ của mỗi chúng ta, một sự hiểu biết mới phát sinh. Chúng ta gọi đây là sự khảo sát Pháp (dhamma-vicaya), và đây là cách mà Thất Giác Chi (bảy yếu tố của sự giác ngộ) phát sinh trong tâm. Sự khảo sát Pháp là một trong bảy yếu tố đó.

Chúng ta có thể hiểu biết Thất giác chi qua sách vở nhưng chúng ta chưa nhìn thấy Thất giác chi thật sự. Thất giác chi thật sự nảy sinh trong tâm. Tất cả những bậc minh triết khai ngộ đều dạy cách thoát khổ. Tất cả sự giảng dạy của họ đều đến từ sự tu hành, từ kinh nghiệm tâm linh của họ. Chúng ta ghi chép chúng lại và gọi đó là giáo lý này, lý thuyết nọ, và rồi chúng ta chỉ quan tâm đến phần chữ nghĩa mà thôi.

Thất giác chi thật đã biến mất bởi vì chúng ta không nhận biết chúng bên trong chính mình; chúng ta không nhìn thấy chúng trong tâm của mình. Nếu chúng phát sinh, chúng phát sinh từ sự tu hành và dẫn đến sự đắc Đạo. Điều này có nghĩa là sự hiện diện của chúng trong tâm là một bằng chứng cho sự tu hành đúng đắn của chúng ta, bởi nếu chúng ta không tu hành đúng cách, những thứ này sẽ không phát sinh.

Nếu chúng ta tu hành đúng cách, chúng ta có thể đắc Đạo. Cho nên mới nói răng: hãy tiếp tục tu hành, dò dẫm từ từ và không ngừng khảo sát. Đừng nghĩ rằng điều mà bạn đang tìm kiếm có thể được tìm thấy ở một nơi nào khác hơn nơi này. Một đệ tử thâm niên của tôi đã từng nghiên cứu Pāḷi tại một đền thờ trước khi đến đây. Ông không thành công cho mấy với sự học của mình, và bởi vì ông nghĩ rằng thiền có thể giúp ông hiểu biết mọi việc, ông đến Wat Pah Pong để thử tu thiền. Mục đích của ông là hành thiền để có thể phiên dịch kinh điển Pāḷi. Tôi giải thích với ông rằng ông đã hiểu lầm. Ông nghĩ rằng tu hành giản dị và dễ dàng như thế - chỉ việc ngồi thiền và rồi mọi việc sáng tỏ.

Thực ra, sự hiểu biết đến từ sự nghiên cứu lý thuyết và từ sự tu tập không hoàn toàn giống nhau. Nghe có vẻ như nhau, nhưng sự hiểu biết đến từ sự thực hành thì thâm sâu hơn và nó dẫn đến sự xả bỏ. Cho đến khi có sự xả bỏ hoàn toàn, chúng ta vẫn phải kiên trì với sự thiền quán của mình. Nếu sự tham ái hay tức giận và chán ghét phát sinh trong tâm, chúng ta không làm ngơ mà chúng ta khảo sát chúng để xem chúng đến từ đâu và như thế nào. Nếu những cảm thọ đó đã sẵn có trong tâm chúng ta, chúng ta quán chiếu và xem xét cách chúng đối kháng chúng ta. Chúng ta nhận rõ chúng và hiểu được sự phiền phức mà chúng ta mang lại cho mình chỉ vì chúng ta chạy theo chúng. Sự hiểu biết này được tìm thấy ngay trong cái tâm thanh tịnh của chúng ta.

Vì lý do này mà các học giả và thiền giả hiểu lầm nhau. Thường thì những người đặt nặng lý thuyết sẽ nói, “Mấy nhà sư tu thiền cứ làm theo ý của mình. Họ không có chút căn bản về giáo lý”. Thật ra, trên một phương diện nào đó, cả hai việc nghiên cứu và thực hành cũng là một thứ, giống như hai mặt của bàn tay. Nếu chúng ta đưa lòng bàn tay ra, mặt bàn tay có vẻ như biến mất. Nhưng thật sự thì nó ẩn ở bên dưới. Khi chúng ta trở bàn tay lại, lòng bàn tay biến mất. Nó không đi đâu cả; nó chỉ ẩn ở dưới.
Cùng thế ấy, khi chúng ta cho rằng sự tu hành của mình đã biến mất, chúng ta bỏ đi nghiên cứu giáo lý với hy vọng nó sẽ có kết quả. Nhưng bất kể bạn nghiên cứu giáo Pháp nhiều đến chừng nào, bạn sẽ không bao giờ hiểu, bởi vì bạn không hiểu Đạo đúng với sự thật. Nếu chúng ta thật sự hiểu Đạo, chúng ta sẽ xả bỏ. Chúng ta dứt trừ mọi ràng buộc, không còn dính mắc. Hoặc nếu vẫn còn sự dính mắc, nó sẽ giảm dần.

Đối với sự nghiên cứu giáo lý, chúng ta có thể hiểu như vầy: mắt chúng ta là một đề tài để nghiên cứu, tai chúng ta là một đề tài để nghiên cứu - mọi thứ đều là đề mục để quán xét. Có thể chúng ta biết rằng sắc là như vầy, như kia, nhưng chúng ta lại dính mắc vào hình sắc và không biết phải làm sao để thoát khỏi. Chúng ta có thể phân biệt âm thanh, nhưng rồi chúng ta dính mắc vào chúng. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đều giống như những cái bẫy lừa gạt tất cả chúng sinh.

Khảo sát những thứ này là đường lối tu hành của chúng ta. Khi một cảm xúc phát sinh, chúng ta dùng sự hiểu biết của mình để quán xét nó. Nếu chúng ta có kiến thức về giáo lý, chúng ta sẽ lập tức dựa vào đó để xem xét cảm xúc này - nó phát sinh bằng cách nào và rồi trở thành như thế nào... Nếu chúng ta chưa hề biết những giáo lý này, chúng ta chỉ làm việc với cái tâm thiên nhiên của mình, và đây là Giáo Pháp của chúng ta. Nếu chúng ta có trí huệ, chúng ta sẽ có thể xem xét cái tâm thiên nhiên này của mình và dùng nó làm đối tượng quán tưởng. Nó cũng y như nhau. Tâm thiên nhiên của chúng ta là giáo lý. Đức Phật dạy chúng ta quán tưởng mọi tư tưởng và cảm xúc phát sinh trong tâm. Hãy dùng cái thực tại của tâm thiên nhiên này làm giáo lý của chúng ta. Chúng ta nương tựa vào cái thực tại này.


^^^

PHẦN III

TRÍ HUỆ


-ooOoo-

Chương 23

Quán chiếu là gì?


Sự giảng dạy sau đây được trích từ buổi vấn đáp tại tu viện Wat Gor Nork trong kỳ kiết hạ năm 1979, Giữa Đại Đức Ajahn Chah và một nhóm đệ tử nói tiếng Anh. Các câu hỏi đã được sắp xếp lại theo một trình tự chuyển tiếp để giúp bạn đọc dễ hiểu hơn.

Sự giác ngộ vượt lên 
trên quá trình tư duy.
Và rồi, hành giả không còn 
bị phỉnh gạt bởi sự tư duy nữa.

Hỏi: Khi ngài dạy về giá trị của sự quán chiếu, có phải ngài đang nói về việc ngồi thiền và suy tư về một đề mục nào đó không - về 32 phần của cơ thể chẳng hạn?

Đáp: Điều đó không cần thiết khi tâm đã hoàn toàn tĩnh lặng. Khi sự tĩnh lặng đã được thiết lập, bạn sẽ tự động biết đối tượng thích hợp cho sự khảo sát. Nếu đó là sự quán chiếu là "thật", thì sẽ không có sự phân biệt giữa "đúng" và "sai", "tốt" và "xấu", không có những thứ như thế. Bạn không ngồi đó suy nghĩ, "Ồ điều này giống như thế này, và điều kia giống như thê kia", v.v... Đó là một hình thức quán chiếu thô tạp. Sự quán chiếu trong thiền không chỉ là vấn đề suy tư - mà đúng ra phải gọi nó là "sự quán chiếu trong yên lặng". Trong khi làm công việc của mình hàng ngày, chúng ta suy tư với sự tỉnh thức về bản chất của sự việc xuyên qua sự so sánh. Đây là một loại khảo sát thô tạp, nhưng nó dẫn đến điều thật.

Hỏi: Khi ngài nói về việc quán chiếu thân và tâm, chúng ta có dùng đến sự suy nghĩ không? Sự suy nghĩ có thể nào đưa đến sự chứng ngộ không? Đây có phải là thiề minh sát không?

Đáp: Lúc ban đầu, chúng ta cần sử dụng sự suy nghĩ, mặc dù sau này chúng ta sẽ vượt lên khỏi đó. Khi chúng ta quán chiếu thật sự, tất cả mọi tư tưởng nhị nguyên đều chấm dứt, mặc dù lúc đầu chúng ta cần cuy nghĩ theo lối nhị nguyên để khởi sự. Cuối cùng thì tất cả mọi suy nghĩ đều kết thúc.

Hỏi: Ngài nói rằng tâm cần có đủ tĩnh lặng (thiền định) trước khi có thể quán chiếu. Vậy tĩnh lặng đến bao nhiêu là đủ?

Đáp: Tĩng lặng đủ để có sự hiện diện của tâm.

Hỏi: Ngài nói ở lại với hiện tại. Có phải đó là không suy nghĩ về quá khứ và tương lai?

Đáp: Suy nghĩ về quá khứ và tương lai không sao cả, nếu bạn hiểu thực chất của những điều này, nhưng bạn không được dính mắc vào chúng. Khi bạn xem sự suy nghĩ chỉ là suy nghĩ, thì đó là trí huệ. Đừng tin vào những thứ đó! Hãy nhận ra rằng tất cả những thứ đó chỉ sinh rồi diệt. Cứ xem mọi thứ là như thế thôi - tâm là tâm - nó không là một thứ gì hay một người nào. Hạnh phúc chỉ là hạnh phúc, khổ chỉ là khổ - nó chỉ là vậy thôi. Khi bạn nhìn thấy được như vậy, bạn sẽ không còn nghi ngờ.

Hỏi: Sự quán chiếu thật có giống như sự suy nghĩ không?

Đáp: Chúng ta dùng sự suy nghĩ như một công cụ, nhưng cái biết phát sinh từ đó thì vượt lên trên tiến trình tư duy, và từ cái biết này, chúng ta không còn bị phỉnh gạt bởi sự suy nghĩ của chúng ta nữa. Bạn nhận ra rằng tất cả mọi suy nghĩ chỉ là sự dao động của tâm, và cái biết thì không sinh và không diệt.  Theo bạn nghĩ thì sự dao động gọi là "tâm" xuất phát từ đâu? Cái mà chúng ta gọi là tâm - tất cả những sự dao động - chỉ là cái tâm thông thường. Nó không phải là cái tâm thật. Cái tâm thật chỉ ở đó; nó không sinh và không diệt.

Nhưng nếu chỉ nói thôi, thì bạn sẽ không thể hiểu những thứ này. Chúng ta cần thật sự xem xét tính chất vô thường, bất toại nguyện , và vô ngã. Chúng ta cần phải sử dụng sự suy nghĩ để quán chiếu bản chất của các pháp hữu vi. Kết quả của việc làm này là trí huệ, và nếu nó là trí huệ thật, mọi thứ sẽ kết thúc, hoàn tất - chúng ta nhận ra sự rỗng không. Dầu sự suy nghĩ có còn đó, nó hoàn toàn rỗng không - bạn không bị nó ảnh hưởng.

Hỏi: Làm sao để đạt đến cái tâm thật này?

Đáp: Làm việc với cái tâm bạn sẵn có, dĩ nhiên! Hãu quán chiếu rằng tất cả các pháp phát sinh trong tâm đều không chắc chắn, không có gì bền vững cả. Hãy thấy nó rõ ràng và thấy rằng không có nơi nào để nắm giữ một thứ gì cả -  tất cả đều rỗng không.

Khi bạn nhìn thấy thực chất của các pháp sinh khởi trong tâm, bạn sẽ không cần làm việc với sự suy nghĩ nữa. Bạn sẽ không nghi ngờ gì nữa về những điều này.

Chúng ta tạm gọi cái "tâm thật" hay "chân tâm" để cho dễ hiểu và tiện việc nghiên cứu, nhưng thật sự thì thiên nhiên là thế thôi. Thí dụ, chúng ta ngồi trên sàn đá ở đây. Sàn nhà là nền - nó không di động hay đi đâu cả. Lầu, bên trên chúng ta, là cái được xây cất nên từ cái nền này. Lầu cũng giống như  những thứ mà chúng ta nhìn thấy trong tâm: hìng sắc, cảm xúc, ký ức, suy nghĩ. Thật ra, chúng không tồn tại theo cách chúng ta nghĩ. Chúng chỉ là cái tâm thông thường. Chúng sinh khởi rồi lại huỷ diệt; chúng không có thực chất, không thật sự tồn tại.

Có một câu chuyện trong kinh nói về việc đức Xá Lợi Phất sát hạch một tỳ kheo trước khi cho phép ông ta trở thành một du tăng tu khổ hạnh. Ngài hỏi vị tỳ kheo ông ta sẽ trả lời thế nào nếu có người hỏi, "Điều gì xảy ra sau khi Đức Phật chết?". Vị tỳ kheo trả lời, "Khi sắc, thọ, tưởng, hành, thức sinh khởi, chúng hoại diệt". Đức Xá Lợi Phất để ông ấy đi.

Tuy nhiên, tu hành không phải là ở đó bàn luận về sự sinh và diệt. Bạn phải tự mình nhìn thấy điều này. Khi ngồi thiền, chỉ việc nhìn thấy những gì đang thật sự xảy ra. Đừng chạy theo một thứ gì. Quán chiếu không có nghĩa là dính mắc vào sự suy nghĩ. Sự suy nghĩ trong thiền của một hành giả tầm Đạo không giống như sự suy nghĩ của thế gian. Chừng nào bạn chưa hiểu sự quán chiếu là gì, thì bạn càng suy nghĩ sự việc càng trở nên rối rắm.

Lý do mà tôi nhấn mạnh về sự phát triển chánh niệm là, chúng ta cần nhìn thấy rõ những gì đang xảy ra. Chúng ta phải hiểu những quá trình của tâm. Khi sự chánh niệm và hiểu biết như thế hiện diện, mọi thứ sẽ được chăm sóc. Tại sao một người hiểu Đạo không bao giờ hành xử từ sự tức giận hay vô minh? Những điều kiện hay nguyên nhân phát sinh những thứ này không tồn tại. Chúng đến từ đâu? Chánh niệm đã khống chế tất cả mọi thứ.

Hỏi: Có phải cái tâm mà ngài đang nói đến gọi là "Tâm nguyên thuỷ" không?

Đáp: Ý bạn là sao?

Hỏi: Theo ngài nói thì hình như có một thứ gì khác bên ngoài cái thân-tâm thông thường. Có thứ gì khác không? Ngài gọi nó là gì?

Đáp: Không có gì cả, và chúng tôi không gọi nó là một thứ gì. Hãy kết thúc với chúng. Ngay cả cái biết cũng không thuộc về một người nào, cho nên hãy kết thúc với nó luôn! Tâm thức không phải là một cá thể, không phải là một tự ngã, cho nên hãy kết thúc với nó - kết thúc với tất cả mọi thứ! Không có gì đáng để ham muốn! Chúng chỉ là một đống phiền phức. Khi bạn nhìn thấy điều này rõ ràng, mọi thứ đều kết thúc.

Hỏi: Chúng ta có thể gọi nó là "Tâm Nguyên Thủy" không?

Đáp: Bạn có thể gọi nó là bất cứ thứ gì bạn muốn. Nhưng bạn phải hiểu điều này rõ ràng. Nếu chúng ta không sử dụng cái thực tại hữu vi, chúng ta sẽ không có từ ngữ và khái niệm để quán xét cái thực tại vô vi - tức là Pháp. Điểm này rất quan trọng.

Hỏi: Mức định ở giai đoạn này là gì? Và sự chánh niệm phải như thế nào?

Đáp: Bạn không cần suy nghĩ kiểu đó. Nếu bạn không có đủ định lực, bạn sẽ không thể đối phó với những câu hỏi này. Bạn cần có đủ định lực để biết điều gì đang xảy ra - đủ để sự sáng suốt và hiểu biết phát sinh.

Những câu hỏi như thế này chứng tỏ rằng bạn vẫn còn nghi ngờ. Bạn cần có đủ tĩnh lặng để không còn nghi ngờ vào những gì bạn đang làm. Nếu bạn thật sự tu hành, bạn sẽ hiểu những điều này. Càng tiếp tục hỏi những câu hỏi như thế, bạn càng làm cho mình rối rắm thêm. Thảo luận thì không sao nếu sự thảo luận có thể giúp cho sự quán chiếu, nhưng nó không cho bạn thấy thực chất của sự việc. Bạn không thể hiểu Đạo qua một người khác. Bạn phải tự mình nhìn thấy Đạo.

Nếu bạn đã hiểu những gì tôi đang nói, bạn không cần phải làm gì nữa. Nếu vẫn còn việc để làm, thì bổn phận của bạn là làm điều đó.

Chỉ việc tiếp tục buông bỏ tất cả, và biết rằng đó là điều bạn đang làm. Bạn không phải chất vấn chính mình mãi, lo lắng về những việc như "Bao nhiên thiền định?". Bất cứ thứ gì phát sinh trong sự tu hành của bạn, cứ buông bỏ nó, biết rằng tất cả đều không chắc chắn, đều tạm bợ. Hãy nhớ như thế! Tất cả đều không chắc chắn. Hãy kết thúc với chúng. Đây là con đường dẫn bạn về với nguồn cội - cái Tâm Nguyên Thủy của bạn.



Chương 24

Pháp tánh


Vô số những thay đổi xảy ra trong sự 
chuyển tiếp từ sinh đến tử cho chúng 
ta thấy Pháp, đó là, tất cả mọi thứ đều 
vô thường, đều hư hoại và tan rã đúng
như bản chất tự nhiên của chúng.


Đôi lúc, một cây ăn trái đang trổ hoa, thì một làn gió nhẹ khuấy động và làm tản mác một số hoa. Những nụ hoa còn lại mọc thành những trái xanh nho nhỏ. Một ngọn gió lớn thổi đên và một số trái xanh này rụng xuống đất. Nhũng trái còn lại chín đỏ và rồi cuối cùng cũng rụng.

Con người cũng vậy. giống như hoa và trái trong gió, rơi rụng ở những giai đoạn khác nhau trong đời. Có người chết lúc còn ở trong bào thai; có người sanh ra vài ngày rồi chết. Có người chết vài năm sau, hay chết sau khi trưởng thành. Những người khác sống đến già mới chết.

Nhìn thấy đời sống con người, chúng ta nghĩ đến tình trạng của những trái cây trong gió; cả hai đều không chắc chắn. Ngay cả trong đời sống xuất gia, bạn cũng có thể nhìn thấy sự không chắc chắn đó. Có người đến tu viện với ý định xuất gia, nhưng đổi ý và ra về, với cái đầu vưà mới cạo. Có người mới là sa di, nhưng quyết định thôi tu. Có người xuất gia chỉ mới được một kỳ kiết hạ là đã muốn hoàn tục. Giống như trái cây trong gió - tất cả đều không chắc chắn.

Tâm chúng ta cũng vậy. Một cảm thọ khởi sinh, lôi kéo tâm, rồi tâm sa đọa.

Đức Phật hiểu rõ bản chất không chắc chắn của sự việc. Ngài quan sát hiện tượng những trái cây trong gió và nghĩ đến các đệ tử của ngài. Ngài thấy họ cũng có cùng một bản chất - không chắc chắn! Có gì khác đâu? Đây là bản chất của các pháp hữu vi.

Cho nên nếu bạn tu hành với sự tỉnh giác, bạn không cần một người nào giảng dạy cho bạn nhiều đến thế để bạn có thể thấy và hiểu. Thí dụ, trong một tiền kiếp, Đức Phật là quốc vương Janaka Kumàra. Ngài không cần nghiên cứu quá nhiều. Tất cả những gì ngài làm là quan sát cây xoài.

Một hôm, ngài cùng vơí một đoàn tùy tùng đến viếng thăm một vườn cây. Từ trên lưng voi, nhà vua nhìn thấy một cây xoài nặng trĩu những trái xoài chín thơm ngon. Không thể ngừng lại vào lúc đó, nên nhà vua quyết định sẽ trở lại sau để hái một ít ăn. Nhưng ông không ngờ rằng đoàn tùy tùng đi theo sau đã tham lam vơ vét tất cả những trái xoài chín, bằng cách rung cây và bẻ gãy các nhánh cây, làm rơi rụng rất nhiều lá.

Chiều hôm đó, khi nhà vua trở lại vườn xoài, thì thấy cây xoài đó không còn một trái nào nữa. Không những thế, cành cây và lá xoài rơi rụng khắp nơi.

Trong lúc thất vọng và tức giận, nhà vua nhận thấy một cây xoài khác gần đó, cành lá vẫn còn nguyên vẹn. Ngài hiểu ngay: cây xoài này không có trái. Nếu cây không có trái, không ai quấy nhiễu nó, cho nên nó không bị hư hại. Trên đường về, nhà vua trầm tư liên tục về sự kiện này: "Làm vua thật là phiền toái, bực bội, và khó khăn. Một vị vua phải luôn lo lắng cho thần dân của mình. Nếu có kẻ muốn tấn công, cướp đoạt, và chiếm cứ một phần vương quốc của mình thì phải làm sao?". Nhà vua không thể an nghỉ, ngay cả khi ngủ, ông cũng thấy ác mộng. Ông thấy trong tâm mình, một cây xoài không có trái nhưng cành lá còn nguyên vẹn. "Nếu chúng ta có thể giống như cây xoài đó", ông nghĩ, "cành lá của chúng ta cũng sẽ không bị hư hại".

Nhà vua về cung điện và ngồi thiền. Cuối cùng, ông quyết định đi tu, sau khi nhận ra bài học từ cây xoài. Ông so sánh mình với cây xoài đó và kết luận rằng nếu một người không dính dấp vào con đường của thế gian, kẻ đó sẽ thật sự độc lập, tự tại, và không còn lo âu. Tâm sẽ không bị quấy nhiễu. Nghĩ như thế, nhà vua trở thành một vị du tăng khất sĩ.

Từ đó về sau, bất cứ ông đi đến đâu, hễ có người hỏi thầy của ông là ai, ông trả lời, "Cây xoài". Ông không cần tiếp thu nhiều giáo lý như chúng ta ở đây. Một cây xoài là đủ để thức tỉnh ông đến sự giảng dạy dẫn vào nội tâm. Và với sự thức tỉnh này, ông trở thành một nhà sư, một người thiểu dục tri túc, một người vui hưởng sự tĩnh mịch. Ông đã buông bỏ thân thế hoàng gia của mình, và tâm ông cuối cùng đã bình an.

Chúng ta cũng phải như vậy. Giống như Đức Phật khi ngài là quốc vương Janaka Kumara, chúng ta nên xem xét sự việc quanh mình với sự tỉnh giác, bởi mọi thứ trong thế gian đều sẵn sàng dạy dỗ chúng ta. Với một chủt trực giác, chúng ta sẽ có thể nhìn thấy rõ bản chất của thế gian. Chúng ta sẽ hiểu ra rằng mọi thứ đều có thể là thầy của chúng ta. Cây cỏ, chẳng hạn, có thể tiết lộ bản chất của thực tại. Với trí huệ, bạn không cần hỏi ai điều gì, không cần nghiên cứu. Chỉ học hỏi từ thiên nhiên thôi cũng đủ cho chúng ta khai ngộ, bởi vì mọi thứ đều đi theo những nguyên tắc bất di bất dịch. Tất cả đều không rời khỏi chân lý. 

Trí huệ đi kèm với sự kiềm thúc và điềm tĩnh có thể dẫn tới sự chứng ngộ sâu xa hơn về quy luật tự nhiên. Bằng cách này, chúng ta sẽ nhận ra chân lý rốt ráo của vạn vật, đó là vô thường, khổ, và vô ngã. Thử xem xét cây cối. Cây cối trên mặt đất đều như nhau, đều là một, đều vô thường, khổ, và vô ngã. Trước tiên, chúng sinh ra, rồi chúng lớn lên và trưởng thành, thay đổi không ngừng, cho đến khi chúng chết.

Cùng thế ấy, con người và thú vật sinh ra, lớn lên và thay đổi không ngừng trong thời gian chúng sống, cho đến khi chúng chết đi. Vô số những thay đổi xảy ra trong sự chuyển tiếp từ sinh đến tử cho chúng ta thấy Pháp, có nghĩa là, tất cả mọi thứ đều vô thường, đều hư hoại và tan rã như bản chất tự nhiên của chúng. Nếu chúng ta có sự tỉnh giác và hiểu biết, nếu chúng ta xem xét với trí huệ và chánh niệm, chúng ta sẽ nhìn thấy Pháp ở khắp mọi nơi. Chúng ta sẽ nhìn thấy con người không ngừng sinh ra , thay đổi và chết đi. Mọi người đều phải chịu sự sinh tử luân hồi. Tất cả chúng ta đều như là một. Nhìn thấy một người rõ ràng thì cũng giống như nhìn thấy mọi người rõ ràng.

Cùng thế ấy, mọi thứ đều là Pháp - không chỉ những thứ chúng ta có thể thấy bằng mắt trần mà cả những thứ chúng ta nhìn thấy trong tâm. Một ý tưởng nảy sinh, thay đổi và hủy diệt. Nó chỉ là một ấn tượng sinh và diệt. Đây là bản chất của tâm. Nếu một người không xem xét và khảo sát như thế này, kẻ đó không thật sự thấy! Nếu một người thật sự thấy, kẻ đó sẽ có trí huệ để nghe Pháp đúng như lời Phật dạy.

Phật ở đâu?
Phật ở trong Pháp.
Pháp ở đâu?
Pháp ở trong Phật.
Ngay nơi đây, bây giờ!
Tăng ở đâu?
Tăng ở trong Pháp.

Phật, Pháp, Tăng hiện hữu trong tâm chúng ta, nhưng chúng ta phải nhìn thấy điều này rõ ràng. Có người tùy tiện nói, "Ô, Phật, Pháp, Tăng ở trong tâm tôi". Thế nhưng sự tu hành của họ thì không phù hợp với chân lý chút nào. Tâm như thế làm sao nhìn thấy Phật, Pháp, Tăng, bởi vì tâm trước hết phải là cái tâm đã biết Pháp. Chỉ khi đó chúng ta mới biết chân lý thật sự tồn tại, và rồi chúng ta mới có thể tu hành và nhận biết nó.

Thí dụ, cảm xúc hay tư tưởng đều không chắc chắn. Khi sự tức giận phát sinh, nó lớn lên, thay đổi, và cuối cùng thì tan biến. Hạnh phúc cũng vậy, nó phát sinh, lớn lên, thay đổi và cuối cùng thì biến mất. Chúng đều rỗng không. Chúng không thật sự là một "thứ" gì. Bên trong thì có thân và tâm này. Bên ngoài thì có cây cỏ, cùng với những thứ khác - tất cả đều phơi bày quy luật vô thường này của vũ trụ.

Dầu đó là cây, là núi, hay là một con vật, noa đều là Pháp. Mọi thứ đều là Pháp. Pháp này ở đâu vậy? Nói ngắn gọn thì những gì không phải là Pháp, không tồn tại. Pháp là sự tự nhiên. Đây gọi là chân Pháp. Kẻ nhìn thấy quy luật tự nhiên, nhìn thấy Pháp. Kẻ nhìn thấy Pháp, nhìn thấy quy luật tự nhiên.

Vậy thì nghiên cứu nhiều để làm gì khi thực tại rốt ráo của đời sống, trong từng giây phút, trong mỗi động thái, đều chỉ là một chuỗi sinh diệt bất tận. Nếu chúng ta tỉnh giác và nhận biết rõ ràng trong mọi tư thế (đi, đứng, nằm, ngồi), thì trí huệ sẽ tự động phát sinh, có nghĩa là, cái biết Đạo Pháp, ở ngay tại đây và bây giờ.

Ngay bây giờ, Đức Phật - vị Phật thật sự - vẫn đang sống, bởi ngài là chính Pháp. Và cái Pháp có thể khiến con người trở thành Phật đó, vẫn tồn tại. Nó không hề chạy đi đâu cả! Nó sinh ra hai vị Phật: một người trong thân và người kia trong tâm.

"Chân Pháp", Đức Phật bảo Ananda, "chỉ có thể được nhận biết xuyên qua sự tu hành". Bất cứ ai thấy Pháp, thấy Phật. Bất cứ ai thấy Phật, thấy Pháp. Và thế là nghĩa gì? Trước đó thì không có Phật, chỉ khi đấng Siddhatta  Gotama giác ngộ Pháp, thì ngài thành Phật. Nếu chúng ta giải thích theo cách này, thì ngài cũng giống như chúng ta. Nếu chúng ta giác ngộ Pháp, chúng ta sẽ giống như Đức Phật. Đây gọi là Phật trong tâm.

Chúng ta phải có chánh niệm về mọi thứ chúng ta làm, bởi chúng ta sẽ là người gặt hái kết quả của những hành động thiện hay ác của mình. Làm thiện, chúng ta gặt quả thiện. Làm ác, chúng ta gặt quả ác. Tất cả những gì bạn phải làm là xem xét cuộc sống hàng ngày của mình để hiểu rõ tiến trình nhân quả này. Đức Gotama Siddhatta đã giác ngộ chân lý này, và nó dẫn đến sự xuất hiện của một vị Phật trên thế giới. Cùng thế ấy, nếu mỗi một người đều tu hành để đạt đến chân lý này, thì họ cũng sẽ là Phật.

Cho nên, Đức Phật vẫn tồn tại. Nghe thấy thế, có người vui vẻ nói rằng: " Nếu Đức Phật còn tại thế, thì tôi có thể tu hành!". Bạn nên hiểu nó theo cách này.

Pháp mà Đức Phật giác ngộ là thứ Pháp vĩnh viễn tồn tại trong thế gian. Nó giống như nước ngầm. Khi một người muốn đào giếng, họ phải đào đủ sâu để tới được nguồn nước ngầm. Nước ngầm vốn sẵn ở đó. Họ không tạo ra nó. Họ chỉ khám phá ra nó. Tương tự như thế, Đức Phật không phát minh ra Pháp. Ngài chỉ khám phá cái vốn sẵn ở đó. Qua sự quán chiếu, Đức Phật nhìn thấy Pháp. Rồi chúng ta nói là Đức Phật giác ngộ, bởi sự giác ngộ là sự nhận biết Pháp. Pháp là chân lý của thế giới này. Bởi vì ngài thấy điều này, Đức Gotama Siddhatta được gọi là "Phật". Và Pháp là cái cho phép những người khác trở thành một vị Phật: "người biết", người biết Pháp. Những ai có đức hạnh và tận tụy với Pháp, kẻ đó sẽ không bao giờ thiếu sự thiện lành. Nếu chúng ta hiểu, chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta thật sự không ở xa Phật, mà đang ngồi ngay trước mắt Ngài. Khi chúng ta hiểu Pháp, ngay lúc đó, chúng ta nhìn thấy Phật.

Ai thật sự tu hành, kẻ đó sẽ nghe Phật Pháp dầu đang đi, đứng, nằm, hay ngồi. Đây không phải là một thứ để suy nghĩ. Nó phát sinh từ cái tâm thanh tịnh. Chúng ta phải tu hành mới có thể nhìn thấy điều này, và rồi sự tu hành của chúng ta sẽ hoàn tất. Bất kể là đi, đứng, nằm, hay ngồi, chúng ta luôn nghe Pháp của Phật.

Đức Phật dạy chúng ta sống ở nơi yên tĩnh để có thể tập tự chủ và kiềm thúc lục căn. Lục căn là nền tảng của sự tu hành, bởi đây là nơi tất cả các pháp sinh khởi, và chúng chỉ sinh khởi từ những nơi này. Cho nên chúng ta tự chủ và kiềm thúc lục căn để có thể biết những điều kiện phát sinh tại đó. Tất cả thiện, ác đều phát sinh từ sáu căn này. Chúng là những tính năng chiếm ưu thế trong thân thể. Mắt chiếm ưu thế về sự thấy; tai về sự nghe; mũi về sự ngửi; lưỡi về sự nếm; thân thể trong sự xúc chạm nóng, lạnh, cứng, mềm; và tâm trong sự phát sinh những ấn tượng. Tất cả những gì chúng ta phải làm là vun bồi sự tu hành của mình chung quanh những điểm này.





[đang cập nhật]




Chương 38

Lời bạt



Khi nào bạn mới ngừng? Hay là bạn sẽ tiếp tục học hỏi Giáo Pháp theo kiểu này? Thế cũng được, nhưng bạn phải biết rằng không phải cái học bên ngoài mà cái học bên trong mới là quan trọng. Với cái học ở bên ngoài, bạn khảo sát con mắt, lỗ tai, cái mũi, cái lưỡi, cái thân và cái tâm này. Đây là cái học thật. Học hỏi sách vở chỉ là bên ngoài, và cái học này không biết bao giờ mới kết thúc.

Khi mắt nhìn thấy hình sắc, điều gì xảy ra? Khi tai, mũi, lưỡi kinh nghiệm âm thanh, mùi vị, điều gì xảy ra? Khi thân và tâm tiếp xúc với những thứ hữu hình và những cảm thọ khác nhau, điều gì xảy ra? Tham, sân, si có còn ở đó không? Chúng ta có lạc lối trong những hình sắc, âm thanh, mùi, vị, xúc chạm và cảm xúc không? Đây là cái học bên trong. Cái học này có điểm dừng, điểm hoàn tất.

Nếu chúng ta học mà không hành, chúng ta sẽ không đạt được kết quả. Nó cũng giống như một người nuôi bò. Buổi sáng, ông dẫn bò ra đồng; buổi chiều, ông dẫn chúng về chuồng - nhưng ông không bao giờ uống sữa bò. Học hỏi cũng tốt, nhưng đừng để nó giống như thế. Bạn nên nuôi bò và uống sữa của nó luôn. Để có được những kết quả tốt nhất, bạn phải học và hành.

Giống như một người nuôi gà, nhưng không nhặt trứng gà. Tất cả những gì ông có được là phân gà! Đây là điều mà tôi nói với những người nuôi gà. Đừng để mình trở thành như thế! Điều này có nghĩa là chúng ta nghiên cứu kinh điển, nhưng chúng ta không biết cách dứt trừ phiền não, chúng ta không biết cách xóa tham, sân, si khỏi tâm chúng ta. Học mà không hành, không dứt trừ được phiền não, sẽ không đi tới đâu cả.

Đức Phật muốn chúng ta nghiên cứu kinh điển, và rồi từ bỏ những hành động bất thiện từ thân, khẩu, ý; để phát triển sự thiện lành trong hành động, lời nói và tư tưởng của chúng ta. Nếu chúng ta chỉ nói suông mà không hành động tương ứng, sự tu hành đó vẫn chưa hoàn toàn. Cho nên, học và hành đều phải tốt.

Bát Chánh Đạo của Đức Phật, con đường tám nhánh để tu hành, chính là cái thân thể này: hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, một cái lưỡi, và một cái thân. Đây là Đạo. Và tâm là người đi trên con đường Đạo. Cho nên, cả sự học hỏi lẫn sự tu hành phải hiện diện trong hành động, lời nói, và ý nghĩ của chúng ta.

Bạn có bao giờ thấy kinh điển giảng dạy về điều gì khác hơn thân, khẩu, và ý không? Kinh điển chỉ giảng dạy về điều này, không gì khác. Phiền não sinh ra tại đây. Nếu bạn biết chúng, chúng chết ngay tại đây. Cho nên, bạn phải hiểu rằng cả sự tu hành lẫn nghiên cứu đều hiện diện ngay nơi đây. Nếu chúng ta hiểu bấy nhiêu thôi, chúng ta biết tất cả. Trong lời nói, thì một lời nói chân thật sẽ tốt hơn cả một đời nói sai. Nói cách khác, một người học mà không hành cũng giống như một cái muỗng trong một nồi súp. Nó ở trong nồi súp mỗi ngày, nhưng nó không biết mùi vị của súp.

Nếu bạn không tu hành, bạn có thể sẽ học hỏi cho đến chết, mà vẫn không biết mùi vị của sự giải thoát!




[đang cập nhật]


Nguồn tham khảo:
https://www.facebook.com/pg/coivecondo/photos/?tab=album&album_id=478143866113651

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
BẬC A LA HÁN, CHÁNH ĐẲNG GIÁC, MINH HẠNH TÚC, THIỆN THỆ, THẾ GIAN GIẢI, VÔ THƯỢNG SỸ, ĐIỀU NGỰ TRƯỢNG PHU, THIÊN NHÂN SƯ, PHẬT, THẾ TÔN.
«
Next
Bài đăng Mới hơn
»
Previous
This is the last post.

Không có nhận xét nào

Leave a Reply