Không được phép bán Pháp như hàng hóa ở chợ. Được phép tái bản
sách này dưới mọi hình thức để phát miễn phí như món quà Pháp
bảo, và không cần xin bất kỳ giấy phép nào nữa. Cấm hoàn toàn việc
tái bản sách này dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích thương mại.
Tác giả: Phra Acharn Mahā Boowa Ñāṇasampanno
Dịch sang tiếng Anh: Siri Buddhasukh
Dịch Việt: Sumanā Lê Thị Sương và Sunanda Phạm Kim Khánh
Hiệu đính bản dịch Việt: PT Diệu Hạnh
Thiết kế bìa và ruột: PT Diệu Hạnh
ISBN: 978-604-86-4085-9
In tại xí nghiệp in Fahasa
774 Trường Chinh, P15
Quận Tân Bình, TP HCM
Liên hệ xin sách và góp ý xin gửi email tới d.dieuhanh@gmail.com
-ooOoo-
Mục lục
Phần I
Lời của tác giảLời người dịch tiếng Anh
Lời của người hiệu đính
1. Thuở thiếu thời
2. Điềm mộng tiên tri
3. Linh ảnh khi nhập định
4. Tìm ra phương pháp đúng
5. Tình trạng xuống dốc vào giai đoạn đó
6. Luôn luôn giữ chánh niệm
7. Cách độ thực của Ngài
8. Hạn chế của việc không có thiền sư tài giỏi hướng dẫn
9. Những phát nguyện trong quá khứ
10. Một cái tâm rất dũng mãnh và lanh lẹ
11. Mạo hiểm tại động Sarika
12. Dấu hiệu nhuốm bệnh đầu tiên
13. Gặp một bầy khỉ
14. Nỗi buồn vô hạn
15. Vị tỳ khưu già hành thiền minh sát
16. Thời Pháp của chư vị đệ tử A La Hán
17. Chứng đắc Đạo Quả A Na Hàm
18. Rời khỏi động Sarika
19. Tại Bangkok với Ngài Chao Khun Upali
20. Phra Acharn Sitha mạo hiểm với cọp
21. Vài vị đệ tử của Ngài Acharn Mun
22. Hạnh đầu đà
23. Chuyện vị tỳ khưu sợ ma
24. Con chó dị thường
25. Tên phù thủy vĩ đại
26. Mật ngọt của những bài giảng
27. Chuyến thứ nhì trở lại vùng Đông Bắc – Cách chiến thắng kinh sợ
28. Vị tỳ khưu đầu đà đương đầu với đau khổ như thế nào
29. Nơi ma quỷ và thánh thần ngự trị
30. Trả lời thẳng người hỏi thay vì trả lời câu hỏi
31. Linh ảnh phát sanh khi hành thiền cần được khảo sát tỉ mỉ
32. Thân tâm tự do – Hạnh phúc và an lạc của vị tỳ khưu đầu đà
33. Cách chư thiên tôn kính Giao cảm giữa tâm và tâm
34. Chữa bệnh đậu mùa – Rải tâm từ hàng ngày
35. Lợi ích của vùng hoang vu – Tâm và ô nhiễm
36. Sợ hãi và Giáo Pháp
37. Xả ly và buông bỏ
38. Sống thiếu thốn dựa trên Giáo Pháp là con đường giải thoát
39. Ngũ lực
40. Nói với lòng tự tin cam đảm
41. Trau dồi tâm là chữa bệnh tâm loạn
42. Long vương và chư thiên viếng thăm
43. Pháp hành thường nhật vào tuổi trung tuần - Thuyết giảng cho những vị khách vô hình
44. Những thời Pháp cho người và chư thiên - So sánh khả năng lĩnh hội
45. Một hòn núi kiêu hãnh
46. Khu rừng nhiễm bệnh sốt rét
47. Chuyện đào giếng – Thiên nhãn của Ngài
48. Nghiêm trị người có tội
49. Kinh nghiệm hành thiền của Ngài
50. Hiệu quả tạo thói quen của thiền định
51. Trung Đạo của bậc Thánh Bất Lai - Những ô nhiễm khéo lẩn trốn
52. Ca khúc hòa tấu của chúa sơn lâm Ảnh hưởng của tâm từ thanh khiết
53. Cuộc đời của con người quả thật ngắn ngủi
54. Thái độ của chư thiên đối với con người
55. Bản chất tự nhiên của chúng sanh vô hình
56. Đi Ubol Rajathani
57. Linh ảnh thấy các loại đệ tử
58. Ép suy nghĩ vào kỷ luật Hai hạng đệ tử
59. Voi đầu đàn đơn độc trong rừng sâu
60. Ở Bangkok và sau đó đi Chiengmai
Phần II
^^^
-ooOoo-
Ajahn Sao Kantasīlo 2/11/1859 - 3/2/1941 |
Ajahn Mun 20/1/1870 - 11/11/1949. Thầy: Ajahn Sao Kantasīlo |
Ajahn Maha Bua 12/8/1913 - 30/1/2011. Thầy: Ajahn Mun |
Ajahn Chah 17/6/1918 - 16/1/1992. Thầy: Ajahn Mun |
-ooOoo-
Lời của tác giả
Cuốn tiểu sử này được viết ra để hé mở về cuộc đời và cách tu tập của vị Đại sư đã quá cố Phra Acharn Mun Bhūridatta. Đây là kết quả của việc góp nhặt những thông tin do một số các đệ tử cùng thời với Ngài, những người đã được Ngài chỉ dạy vào những thời điểm khác nhau, hảo tâm cung cấp. Do vậy, mức độ chính xác của những thông tin này là khá đáng tin cậy, dù vậy, đương nhiên, không thể trông cậy từng vị đệ tử của Ngài nhớ lại được từng từ chỉ dạy của Ngài, từng địa điểm và từng sự kiện trong cuộc đời của Ngài. Tuy vậy, không thể chờ để có thể thu thập được thông tin hoàn hảo và đầy đủ. Ta càng chờ lâu, những chi tiết quan trọng chắc chắn sẽ phai dần trong trí nhớ của các vị đệ tử thời đó. Những thế hệ tương lai sẽ mất dần một tấm gương cao cả, một người họ có thể ngưỡng trông và noi theo. Vì lưu ý tới sự thật này nên cuốn tiểu sử này được viết ra, với hy vọng là ít nhất có được cái gì đó có thể tốt hơn là không có gì cả.
Phương pháp trình bày ở đây tuân theo phương pháp của các vị viết tiểu sử các Vị đệ tử Cao cả thời cổ trong các bài kinh kệ khác nhau, với hy vọng rằng đó sẽ là những ví dụ khích lệ các thế hệ tương lai. Nếu bất kể cái gì liên quan tới cố Đại sư Phra Acharn Mun mà có vẻ là “không thích hợp”, người viết xin độc giả thứ lỗi. Đây là vì những người quan tâm đến khía cạnh này của Phật Pháp mà người viết cố gắng làm việc này. Người viết phải thừa nhận rằng người viết không thể không cảm thấy lo lắng về cố gắng của mình.
Boowa
^^^
Lời người dịch tiếng Anh
Bản dịch này đã cố gắng hết sức để tóm bắt được ý nghĩa đầy đủ của bản gốc tiếng Thái, mà trong vài trường hợp là thể hiện ẩn ý, và do vậy bản dịch này không thể gọi là dịch từng từ. Mọi từ mà người dịch thêm vào được để trong ngoặc. Thấy cần phải thêm chú thích để làm rõ nghĩa của các từ vì không như vậy có thể hiểu theo các nghĩa khác, hoặc vì người phương Tây, độc giả của cuốn sách này, không đủ quen với các thuật ngữ Phật giáo hoặc việc tu tập của các tỳ khưu. Phần Chú Giải Bổ Sung ở cuối sách cũng là nhằm mục đích này.
Người dịch xin hồi hướng nỗ lực của mình trong công trình này tới tất cả những ai quyết tâm chuyển Pháp từ Kinh tạng vào tâm mình, và tới những ai dám dũng cảm chịu đựng đau khổ dẫn tới việc kết thúc đau khổ, và những ai mong muốn nhìn được dấu chân “tươi rói” của Đức Phật và các vị đệ tử Cao cả của Ngài trong thời đại này.
Siri Buddasukh
22/12/2519/1976
^^^
Lời của người hiệu đính
Đây là bản chép lại từ bản dịch Việt của Sumanā Lê Thị Sương và Sunanda Phạm Kim Khánh do Nārada Center phát hành, được dịch từ bản dịch tiếng Anh của Siri Buddhasukh. Cuốn sách này được hoàn thành với mong ước rằng tất cả những ai đọc cuốn sách này sẽ được khích lệ trong việc tu tập theo Giáo Pháp của Đức Phật.
Quá trình thực hiện cuốn sách này được bắt đầu từ việc đánh máy lại nguyên bản dịch. Tiếp đó là hiệu đính lại những lỗi chính tả rõ ràng và một số từ ngữ sau khi đã đối chiếu với nguyên bản. Trong quá trình hiệu đính, những chỗ khó hiểu đã được đối chiếu với bản dịch tiếng Anh khác của Bhikkhu Dick Sīlaratano và được chỉnh lại khi cần thiết. Phần Chú Giải Bổ Sung ở cuối sách được lược bớt đi vì thấy không cần thiết đối với độc giả Việt Nam. Nếu quý vị nào có nhu cầu đọc phần này, xin gửi email tới d.dieuhanh@gmail. com, chúng tôi xin cung cấp.
Có tới gần 10 người tham gia vào công trình này, trợ giúp trong các việc đánh máy, hiệu đính, đọc bản bông. Mỗi người trong số họ đều đáng được nhiệt thành tán dương. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng do sức lực và khả năng có hạn, khó lòng có thể tránh được sai sót trong lần xuất bản này. Xin quý vị độc giả rộng lòng tha thứ và xin góp ý để lần tái bản sau được hoàn thiện hơn. Mọi góp ý, phê bình xin gửi email về d.dieuhanh@gmail.com.
Nhóm chép sách
8 tháng 3 năm 2014
^^^
1. Thuở thiếu thời
Ngài Phra Acharn Mun (đọc là Acharn Măn) là vị thiền sư lỗi lạc, nổi danh nhất trong thời của Ngài. Ngài được tất cả các vị đệ tử thân cận thật sự kính mộ. Khi lắng nghe những thời Pháp và những lời dạy của Ngài về Giáo Pháp vi diệu, những môn đệ sống gần Ngài nhận thấy rõ rằng Ngài đã đạt đến một tầng liễu ngộ rất cao siêu. Cảm tưởng mạnh mẽ và sâu đậm khó phai mờ ấy về sau luôn luôn được chứng minh tỏ rõ. Hàng đệ tử của Ngài bao gồm các bậc xuất gia cũng như các vị cư sỹ tại gia từ khắp nơi trong xứ Thái và xứ Lào lân cận. Từ buổi thiếu thời đến ngày cuối cùng, cuộc đời của Ngài thật vô cùng vẻ vang rực rỡ, dù khi còn là cư sỹ hay đến lúc đã xuất gia. Đời của Ngài quả thật hy hữu, quả thật rất tinh khiết và trong sáng, bất luận kim cương hay ngọc báu nào cũng khó có thể sánh bằng.
Ngài sanh trưởng trong gia đình họ Kankaew, cha là Cụ Ông Nai Kamduang và mẹ là Cụ Bà Nang Jan, cả hai đều sống theo truyền thống Phật Giáo. Ngài ra đời vào ngày thứ Năm, 20 tháng 1, năm 1870, Phật lịch 2413, tại tỉnh lỵ Ubol Rajathani, tổng Khambong, quận Khongjiem. Trong tám anh chị em của Ngài chỉ có hai người còn sanh tiền lúc Ngài viên tịch. Ngài là anh cả, vóc người nhỏ nhắn và nước da ngăm ngăm. Từ thuở còn thơ ấu, Ngài lanh lẹ và đầy khí lực, thông minh và tháo vát. Vào năm lên mười lăm tuổi, Ngài xuất gia sāmaṇera tại tu viện Khambong trong làng. Vì bẩm tính vốn ưa thích học hỏi Giáo Pháp nên không bao lâu Ngài đã thuộc lòng nhiều bài kinh khác nhau do thầy dạy. Tính tình và tác phong Ngài đúng mực, chân thật, không bao giờ gây phiền phức cho bạn hữu hay thầy tổ.
Sau hai năm làm sāmaṇera ở chùa, Ngài vâng lời cha hoàn tục, nhưng nếp sống phạm hạnh của đời tu sỹ đã thấm nhuần và ảnh hưởng tới Ngài một cách sâu đậm. Ngài không bao giờ quên, và quyết định sớm muộn gì cũng trở lại. Đó có thể là năng lực hùng mạnh và đức tin (saddhā) bất thối chuyển đã vững chắc ăn sâu vào tâm tính Ngài. Về sau, vào năm lên hai mươi hai tuổi, hình như không còn có thể cưỡng lại tiếng gọi của đời sống đạo hạnh thiêng liêng, Ngài xin phép giã từ cha mẹ, vào chùa tu. Ông bà vốn ước muốn cho con xuất gia tỳ khưu nên rất sẵn lòng và hoan hỷ chuẩn bị các lễ vật cần thiết để Ngài thọ Cụ túc giới tại chùa Wat Liab, trong tỉnh lỵ Ubol Rajathani, ngày 12 tháng 6 năm Phật lịch 2436 (1893 DL), với Ngài Phra Ariyakavi làm Thầy Tế độ, Ngài Krū Sithā làm thầy truyền giới và Ngài Phra Krū Prajak Ubolguṇa làm giáo thọ trong buổi lễ. Ngài được đặt Pháp danh là Bhūridatta, có nghĩa là đầy đủ trí tuệ. Sau ngày lễ xuất gia, Ngài thực hành thiền minh sát với Ngài thiền sư Acharn Sao Kantasīlo tại chùa Wat Liab.
^^^
2. Điềm mộng tiên tri
Trong những ngày đầu tiên thực hành thiền minh sát với thiền sư Phra Acharn Sao, Ngài chọn tiếng “Buddho” làm đề mục, nhưng không thấy an tĩnh như mong mỏi. Điều này đôi khi làm cho Ngài hoài nghi về pháp hành, nhưng vẫn gia công tiếp tục chuyên cần đến ngày thâu gặt thành quả, đủ an lạc để làm cho tâm mát mẻ. Rồi một đêm nọ Ngài nằm mộng.
“Ngài thấy mình đi ra khỏi làng và đi thẳng vào một khu rừng già, cây cao to lớn và lùm bụi rậm rạp, hầu như không thể vào sâu hơn nữa. Nhưng rồi Ngài cũng tìm được cách xuyên qua tất cả, và sau cùng vượt đến một đồng cỏ mênh mông trải dài trước mắt đến tận chân trời. Ngài lại tiếp tục cuộc hành trình, liên tục gia công chuyên cần. Trên đường đi Ngài gặp một thân cây to lớn ngã nằm trên mặt đất. Theo tiếng Thái loại cây này được gọi là “jat.” Súc gỗ khổng lồ ấy nằm đó từ nhiều năm trước nên một phần đã bị chôn vùi dưới đất, vỏ và lớp ngoài của thân cây đã mục nát. Lúc ấy Ngài trèo lên và đi trên khúc gỗ, nhìn và quán tưởng rằng cây này sẽ không còn có thể mọc lên được nữa (1) . Ngài biết rằng Ngài sẽ không còn tái sanh trong vòng luân hồi sanh tử triền miên nữa. Ngài so sánh khúc gỗ “jat” nằm ngã dưới đất không còn đâm chồi sống lại được nữa với những lần sanh “jāti” trước (bao gồm cả chết nữa). Hiểu rằng không còn mọc lên được nữa cũng là tượng trưng – nếu Ngài không bỏ dở nỗ lực tu luyện mà cứ kiên trì tinh tấn thì đây sẽ là lần sanh cuối cùng của Ngài. Đồng cỏ trải rộng ra tứ phía mút tận chân trời, là những kiếp “tái sanh” và “tái tử” nối tiếp nhau vô cùng tận, không khác nào con rắn cắn cái đuôi của nó.
Trong khi Ngài đứng trầm ngâm chiêm nghiệm về ý nghĩa của hình ảnh tượng trưng ấy thì có một con ngựa trắng xuất hiện và đi về phía Ngài. Ngài có ý muốn cưỡi ngựa và, ngay vào lúc ấy, thấy mình đang ngồi trên lưng ngựa cho ngựa sải thật nhanh. Ngài không biết mình đi về đâu hay tại sao đi, nhưng cảm thấy như ngựa chở mình đi khá xa trên trảng đồng cỏ mênh mông hầu như vô cùng tận ấy. Trên đường đi, Ngài chợt thấy một cái hộp bằng kính trong đó có bộ Tam tạng Kinh (Tipiṭaka). Hộp mầu trắng bạc rất đẹp, kiểu hộp thật là công phu. Dường như hiểu ý Ngài, con ngựa chạy ngay lại cái hộp đựng Tam tạng Kinh. Ngài xuống ngựa với ý định mở cái hộp ra để xem Tam tạng Kinh nằm trong đó. Trong khi ấy, đã làm xong nhiệm vụ, con ngựa liền biến mất. Địa điểm này nằm vào phần cuối cùng của trảng đất mênh mông. Từ nơi đây, Ngài có thể trông thấy một khu rừng rậm hoang vu, gai góc chằng chịt, không thể nào đi xuyên qua. Bây giờ, Ngài bước lần đến cái hộp, định mở ra xem bộ Tam tạng nằm trong đó, nhưng ngay vào lúc ấy thì giật mình tỉnh dậy.”
Điềm mộng tiên tri này làm cho Ngài thêm vững lòng tin chắc rằng nếu không ngừng kiên trì cố gắng thì Ngài sẽ có thể thành tựu mục tiêu trong kiếp sống hiện tiền. Kể từ đó, Ngài càng chuyên cần tinh tấn thực hành, ngày đêm chăm chú niệm buddho, kiểm soát từng khoảnh khắc và mọi cử động ngày và đêm. Ngài tiếp tục hành trì hạnh đầu đà dhūtaṅga mà từ lúc mới xuất gia đến khi tịch diệt lúc nào cũng nghiêm túc thực hành. Các hạnh đó là: vị tỳ khưu chỉ đắp y may bằng vải vụn ráp lại, không thọ lãnh y đã may xong và dâng đến tay; đi ra ngoài trì bình khất thực, ngoại trừ ngày nào muốn nhịn ăn; chỉ thọ vật thực nào đã được sớt vào bát mình trong khi đi trì bình, không thọ ngoài lúc đi bát; chỉ độ thực (ăn) ngày một lần và không thọ nhận vật thực nào được dâng đến sau đó; ăn từ trong bát; chỉ có ba lá y (ngoài cái chăn để đi tắm mà hiện thời trở thành rất cần thiết); và sống trong rừng sâu hoang vắng, có thể là dưới một cội cây, trong những thung lũng, trong các động đá, hoặc dưới một gọp đá (ngoại trừ một đôi khi rất ngắn ngủi, có người thỉnh vào thành phố).
Đôi khi Ngài cũng hành các giới khác trong hạnh đầu đà. Ngài hành hạnh đầu đà một cách rất chặt chẽ và trong sạch, thời này không dễ có ai khác thực hành được nghiêm chỉnh như vậy. Ngài luôn luôn cương quyết và kiên trì bám sát vào giới luật. Đã quyết định, Ngài không bao giờ thối chuyển. Đã lập tâm nhất quyết làm bất luận gì, dù ở “bên ngoài”, như hạnh đầu đà, hay “bên trong”, như hành thiền, Ngài không bao giờ do dự hay chùn bước, chểnh mảng. Ngài dành trọn cuộc đời phạm hạnh của mình nhằm vào mục tiêu Giải thoát, tập trung nỗ lực vào việc theo dõi và kiểm soát mọi hành động, quyết tận diệt ô nhiễm. Mặc dù lúc bấy giờ còn là phàm nhân (puthujjana), Ngài không để tính ngã mạn tự cao lọt vào tâm mình. Mặc dù chưa đắc tầng Thánh nào, Ngài không giống như những người khác ở điểm là luôn luôn giác tỉnh canh phòng, luôn luôn sẵn sàng nghênh chiến và tấn công ô nhiễm một cách can đảm. Chúng ta được biết điều này qua những câu chuyện mà Ngài thuật lại sau này.
Khi cảm thấy tâm đã vững chắc an trụ để quán niệm, Ngài nhớ lại điềm mộng tiên tri ngày nào và nhận rõ rằng đời sống tại gia quả thật là tổ hợp của đủ loại đau khổ, chẳng khác nào một khu rừng rậm mênh mông đầy chông gai chằng chịt, sào huyệt của tất cả các loại hiểm họa. Trong khi ấy cuộc sống phạm hạnh của đời tu sỹ, với sự hỗ trợ của cố gắng xả ly xuất gia, có thể giúp Ngài vượt qua khỏi vùng đất hiểm nguy, đến tận trảng cỏ bao la bát ngát, phần đất trống trải an toàn, không có gì cản ngăn tầm mắt. Con ngựa trắng to lớn là pháp hành nghiêm chỉnh có tiềm lực đưa Ngài vượt đến Giải thoát, đến cái hộp kính đựng Tam tạng Pháp Bảo có thiết kế phức tạp. Tuy nhiên, vì Ngài còn khuyết điểm nên không thể mở được cái hộp và do đó chưa đủ thuần thục để tinh thông pháp học. Như vậy, Ngài chưa có đủ bốn tuệ patisambhidā ñāna (phân tích và biện giải) mà người có đầy đủ khả năng về phương pháp và cách thức giảng dạy cần phải có. Vị này phải có trí tuệ mênh mông cao vọi như trời và sâu thẳm như biển và nhờ đó có thể giáo hóa tất cả các loại chúng sanh trong Tam Giới. Bởi vì số lượng ba-la-mật (pāramī) tích trữ chưa đủ, Ngài nói như vậy, cho nên dù có đủ duyên lành được nhìn bên ngoài cái hộp đựng Tam tạng nhưng Ngài không thể đọc những gì chứa đựng bên trong. Điều này có nghĩa rằng Ngài chỉ có thể dạy người khác phải làm gì, chứ không đủ khả năng để tạo thành từ ngữ kỹ thuật chính thức. Điểm này đúng hay không, có một điều rất rõ rệt đối với các đệ tử thân cận có diễm phúc được Ngài chỉ dạy và những người được Ngài dẫn dắt hành thiền là mọi và mỗi chủ đề của những lời chỉ dạy và Pháp thoại của Ngài quả thật kỳ diệu và xúc tích, vượt khỏi mọi năng lực diễn tả của ngôn ngữ. Trong thời hiện đại này tìm đâu ra một lối giảng dạy Giáo Pháp tuyệt vời, không bao giờ có thể quên được như vậy trên thế gian?
__________
(1). Điềm mộng này có ý nghĩa tượng trưng. Người Thái gọi loại gỗ này là “jat”, phát âm tương tự như chữ “jāti” trong tiêng Pāli có nghĩa là “sinh.”
^^^
3. Linh ảnh khi nhập định
Một ngày, tại chùa Wat Liab, trong lúc ngồi thiền niệm buddho thì tâm Ngài nhập định. Bỗng nhiên hiện đến Ngài hình ảnh (nimitta) một xác chết sình to cùng với đàn kên kên, quạ và chó xâu lại, chen lấn, xô đẩy nhau để giành giật, cắn xé cái xác chết sình thối ra từng mảnh và tung rải khắp nơi ngay trước mắt Ngài. Ngài cảm thấy xúc động mạnh mẽ, vô cùng chán chê ghê tởm. Sau khi xuất thiền, Ngài vẫn đều đặn ngày đêm có hình ảnh ấy trong tâm, từng khoảnh khắc, trong mọi oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi. Lúc ngồi thiền trở lại Ngài lấy hình ảnh cái xác chết làm đề mục. Tiếp tục quán niệm, Ngài thấy cái thây sình dần dần trở thành một đĩa kính tròn lửng lơ trước mắt Ngài. Quán niệm cái đĩa sâu hơn nữa Ngài thấy một quang cảnh bao quát vô cùng tận trong đó có nhiều vật thể và cảnh vật khác nhau, đây rõ ràng là một mô hình thay đổi liên tục không dứt, là hậu quả của việc “đuổi bắt” hay của tính hiếu kỳ, lòng mong mỏi không bao giờ biết đủ, muốn xem cái gì sẽ xảy đến tiếp theo. Một lúc thì Ngài thấy mình đang trèo lên một đỉnh núi cao, rồi thấy tay đang cầm một thanh kiếm, chân đi giầy, đi tới đi lui trên núi. Vào lúc khác thì Ngài đến trước một bức tường có một cánh cửa. Ngài mở cửa và thấy bên trong có một vài vị tỳ khưu đang ngồi hành thiền. Rồi quang cảnh mở rộng ra để cho Ngài thấy những mỏm đá dựng đứng và những hang động có vài tu sỹ ẩn dật đang hành đạo. Rồi lúc khác nữa Ngài thấy một cái gì như cái nôi hay cái thúng từ trên mỏm đá dựng cao thòng xuống. Ngài thấy mình bước vào thúng và được kéo lên khỏi vực thẳm, và từ trên cao Ngài thấy một chiếc thuyền to lớn trên đó có một cái bàn vuông. Hòn núi cao trọn vẹn nằm trong ánh sáng chói ngời rực rỡ. Rồi Ngài thấy mình độ thực trên núi. Đó là quang cảnh luôn luôn biến đổi mở rộng trước mắt Ngài mà không dẫn đến đâu.
Trong ba tháng trường, mô hình đổi thay vô cùng tận và không thể tả phát sanh đến Ngài trong khi hành thiền mà không có dấu hiệu chấm dứt. Thành quả thâu gặt từ nội tâm quả thật không có gì đáng hài lòng. Sau những thời tọa thiền như vậy, tâm Ngài vẫn bị những ảnh hưởng vọng động của ngoại cảnh xâm nhập vào và đưa đến những cơn buồn vui từng chập như xưa. Nỗ lực hành thiền của Ngài không làm cho tâm an trụ hay quân bình. Đến đó, Ngài quả quyết nhận định rằng đây chắc chắn KHÔNG PHẢI là con đường chân chính dẫn đến Giải thoát. Nếu đúng là Chánh Đạo thì tâm phải quân bình an lạc chứ không chứa đựng những xúc cảm khuấy động như vậy. Đây là loại xúc cảm chỉ phát sanh đến những người tầm thường, không biết gì đến việc phát triển tâm. Và Ngài đi đến kết luận rằng loại rượt bắt, hướng sự chú tâm ra ngoài để chạy theo những cảnh vật và những diễn biến bên ngoài đi ngược lại những quy tắc của pháp luyện tâm, vì thế tâm Ngài không thanh bình an lạc, không thật sự vắng lặng, tự tại như lẽ ra phải vậy.
Kể từ đó, Ngài đảo ngược chiều hướng chú tâm, hướng tâm trở vào thân, đưa xuyên qua toàn thân, ở nhiều tầng lớp, nhiều vị trí khác nhau - theo chiều dọc, chiều ngang, lên trên, xuống dưới và sang hai bên - cặp mắt tỉ mỉ chú niệm (sati) luôn luôn theo dõi chặt chẽ. Ngài dành phần lớn thì giờ để đi kinh hành (caṅkama). Đôi khi cũng có tọa thiền. Trong những lúc ngồi thiền Ngài không để tâm an trú trong trạng thái định vào một điểm mà luôn luôn giác tỉnh quán chiếu những phần khác nhau trong thân. Trước lúc ngủ cũng là thiền về thân.
^^^
4. Tìm ra phương pháp đúng
Sau khi thử thực hành phương pháp này trong vài ngày, Ngài bắt đầu ngồi thiền lấy bản chất của thân làm đề mục chính, lần này cho tâm an trụ vào nhất điểm để nhìn những gì sẽ xảy ra. Vì tâm đã được rèn luyện thích hợp và thuần hóa trong nhiều ngày mà chưa được an nghỉ, nên khi Ngài vừa gom lại thì tâm định an trụ dễ dàng và nhanh chóng một cách bất ngờ. Ngay vào khoảnh khắc ấy thân hình như phân ra làm hai phần và phát sanh sự hiểu biết tự nhiên và tự động rằng “không còn hoài nghi gì nữa, đấy chắc chắn là con đường đúng.” Trạng thái tâm nhất điểm có đặc tính là chú niệm vững chắc trong thân, và như thế, ngăn ngừa không để tâm phóng “ra ngoài” vởn vơ đó đây một cách bất định và vô ích. Đó là phương pháp tự quán chiếu mà Ngài áp dụng và về sau, sửa đổi đôi chút cho những cố gắng và pháp hành ở mức độ cao hơn. Đó là bước ngoặt rất quan trọng trong cuộc đời tận lực chuyên cần tu tập của Ngài. Ba tháng trước đó đã bị hoang phí chạy theo những ảo ảnh bên ngoài, một hạn chế khi thiếu sự hướng dẫn và trông nom của một vị thiền sư tài giỏi. Hạn chế này ít ra cũng gây chậm trễ không cần thiết, mà nếu nguy hại hơn, còn có thể dẫn dắt hành giả lầm đường lạc lối, đưa vào những hoàn cảnh hiểm nguy và khốn khổ.
^^^
5. Tình trạng xuống dốc vào giai đoạn đó
Phra Acharn Mun thường nói rằng vào giai đoạn Ngài dấn thân vào pháp hành để trau dồi và rèn luyện tâm, rất ít người lưu ý đến tầm quan trọng của khía cạnh này trong Phật Giáo. Đối với hàng tại gia cư sỹ, thực hành để trau dồi tâm hình như là điều gì xa lạ, không liên hệ đến Phật Giáo. Khi thấy một vị tu sỹ dhūtaṅga từ xa đến thì người ta sợ hãi. Nếu ở gần làng, người ta bỏ chạy vào xóm, hoặc chạy vào khu rừng gần đó, lẩn núp trong lùm bụi. Trong chốc lát, vị tỳ khưu bỗng thấy mình còn trơ trọi một mình. Thử tưởng tượng, bị bỏ rơi như vậy vị ấy cảm thấy bơ vơ dường nào, nhất là khi đến một vùng xa lạ, muốn hỏi đường đến làng hay quận gần nhất.
Đi trên núi, đôi khi vị tỳ khưu thấy vài phụ nữ và trẻ con đang hái rau hay bắt cá dưới suối. Vừa thấy dạng nhà sư từ xa đến họ sợ hãi, vội vã kêu réo nhau, “Kìa! Ông sư Ăn trưa đến kìa!” Rồi họ vứt giỏ, thúng, hay bất kể những gì đang cầm trong tay, không sợ có gì có thể vỡ hay mất, hớt hải chạy đến chỗ núp gần nhất. Còn trẻ con, bị bỏ rơi một mình sau cơn kêu la kinh hoàng của mẹ thì hoảng sợ. Chúng chạy rối loạn đầu này đầu kia không biết chạy về đâu, trong khi mẹ chúng vẫn còn quá sợ hãi đang ẩn trốn không dám ra. Trong tình trạng rối ren hỗn loạn ấy, “Nhà sư Ăn trưa” sững sờ, không còn lựa chọn nào khác là buồn bã tiếp tục con đường của mình. Mọi cố gắng để dỗ dành các em bé sẽ làm cho tình thế càng trở nên trầm trọng hơn, và làm tiếng la hét càng to hơn và sợ hãi hơn. Chỉ đến khi “Nhà sư Ăn trưa” đi khỏi tầm mắt, cảnh hỗn loạn mới chấm dứt. Khi đó các bà mẹ mới trở ra dỗ con và, thấy không mất gì, họ nhắc lại câu chuyện gặp “vật” khủng khiếp, cười với nhau về sự la hét và chạy bán sống bán chết của chính họ. Rồi họ trở lại công cuộc hái rau và bắt cá hàng ngày.
Đó là lối nhìn các nhà sư tu hạnh đầu đà của những người ở trong vùng Ngài. Hình dáng các nhà sư này thật khác thường và chắc chắn gây nên những cảm xúc lo ngại và kinh hãi, nhất là đối với phụ nữ và trẻ con. Như vậy lẽ dĩ nhiên, vào lúc Ngài mới bắt đầu tu hạnh đầu đà không mấy ai biết đến. Tuy nhiên, có những lý do làm cho ta dễ hiểu điều này. Trước tiên, Ngài luôn luôn tự thu thúc một cách rất nghiêm chỉnh, không dễ dàng làm quen với bất cứ ai, ngoại trừ người đã có quen biết lâu ngày; thứ đến, vì bộ tam y - y lót, y nội và y ngoại - cùng với các vật dụng cần thiết khác của Ngài, có mầu sắc trông rất tối tăm cũ kỹ. Mới nhìn, người ta cảm thấy ghê sợ hơn là hoan hỷ và thích thú.
Trong thời gian du phương, Ngài không ở cố định một nơi nào và đắp y mầu vàng nâu sậm nhuộm bằng mủ cây mít. Ngài mang bên vai cái mà tiếng Thái gọi là “klod”, một thứ dù lớn hơn dù thường dùng, có thể treo trên cành cây thòng xuống làm mùng, đặc biệt làm riêng cho các nhà sư dhūtaṅga - để tránh muỗi khi ngồi thiền. Bên vai kia là cái bát đựng trong bao để dùng khi đi trì bình. Khi các nhà sư này đi chung với nhau, vị này đi sau vị kia thành một hàng dài. Đối với những ai chưa từng bao giờ nhìn thấy cảnh nhà sư dhūtaṅga đi trong rừng thì bộ y vàng sậm của các Ngài (cách đắp y và mang những vật dụng khác như ấm nước treo lủng lẳng bên vai) xem có vẻ khác thường, nhưng với người đã quen thuộc với lối tu hạnh đầu đà này thì hình dáng nghiêm trang và từ tốn của các Ngài quả thật cảm kích và thích thú.
Nhiều người, lúc đầu còn xa lạ với Ngài Phra Acharn Mun, về sau dần dần ngày càng kính phục và cảm mến khi Ngài đến ở với họ. Lòng kính mộ của họ càng tăng trưởng khi được nghe Ngài giảng dạy. Tự nhiên họ cảm thấy quý mến muốn đến gần để được nghe dạy Giáo Pháp. Ngài đặt họ đúng vào con đường của Chánh Pháp. Đó là cách mà một vị tỳ khưu chân chính tu hạnh đầu đà, noi theo con đường chính trực (trực hạnh) có thể tiếp cận dân chúng. Đó là thái độ của chính Ngài, là tác phong mà Ngài tự tạo cho mình, đúng theo Giáo Pháp mà Ngài giảng dạy và điều đó có sức hấp dẫn và thu hút dân chúng vào con đường chân chính.
^^^
6. Luôn luôn giữ chánh niệm
Truyền thống của các nhà sư dhūtaṅga là hàng năm, sau khi an trú ba tháng ở một xóm làng trong mùa an cư kiết hạ thì ra đi, tìm cảnh rừng núi hoang vu hẻo lánh nhưng không quá xa một khu dân cư thưa thớt để có thể trì bình khất thực và dành trọn thời gian để diệt tận ô nhiễm trong tâm. Ngài Phra Acharn Mun sống theo truyền thống này. Ngài đi đó đây trong vùng Đông bắc xứ Thái Lan nhiều hơn bất cứ nơi nào khác trong nước vì vùng này có nhiều rừng, nhiều núi, gần những thị trấn như Nakhorn Panom, Sakol Nakhorn, Udorn Thani, Nongkhai, Loey, Lomsak. Ngài cũng sống nhiều trong vùng rừng rậm núi cao gần các tỉnh của vương quốc Lào như Tha Kaek, Vientiane và Luang Prabang. Đối với Ngài, điều quan trọng nhất là tận diệt ô nhiễm, dù ở nơi nào, trong oai nghi nào, đi, đứng, nằm, ngồi, và bất luận giờ phút nào, ngày cũng như đêm. Trong tâm Ngài không bao giờ có cơ hội để cho những tư tưởng ô nhiễm phát triển. Tất cả mọi nỗ lực đều tập trung vào việc tận diệt ô nhiễm và trau dồi phát triển tâm. Với mục đích này, Ngài luôn luôn thích sống ẩn dật, đi đó đây đơn độc một mình, chỉ có Giải thoát làm mục tiêu duy nhất.
Ngài luôn luôn cương quyết, đó là đặc tính của tất cả mọi cố gắng của Ngài. Từ khi khám phá ra phương pháp đúng đắn, Ngài đều đặn kiên trì tu luyện và vững chắc tiến bộ. Thân không ngừng được mổ xẻ rồi phân tách và làm tiêu tan trước “Nhãn quan của trí tuệ” cho đến khi kinh nghiệm được tinh thuần và hiểu biết thấu đáo. Tâm được củng cố bởi nỗ lực không gián đoạn nên ngày càng thanh bình an lạc. Theo lời của Ngài, bất luận ở đâu và bất cứ lúc nào, không có một cử động nào tách rời ra khỏi ý niệm diệt trừ ô nhiễm. Dù trong lúc đi trì bình, lúc quét nhà, rửa ống nhổ, may vá, hay nhuộm y, lúc độ thực, đi tới hay đi lui, lúc ở trong chùa hay ở ngoài, chú niệm luôn luôn hiện hữu để kiểm soát những yếu tố đằng sau những cử động và oai nghi ấy, làm dụng cụ để thâu gặt nhiều thành quả lớn lao. Chỉ có lúc ngủ, tâm mới không niệm. Khi vừa tỉnh giấc thì Ngài dậy liền, không bao giờ ngủ rốn vì nó sẽ dưỡng nuôi thói quen lười biếng và ham ngủ. Thay vì ngủ rốn, Ngài dậy liền, đi rửa mặt và bắt đầu nỗ lực diệt trừ ô nhiễm. Nếu sau khi rửa mặt mà vẫn còn cảm thấy buồn ngủ thì Ngài lui việc ngồi thiền một lúc, sợ rằng mình có thể ngủ trở lại mà không hay biết. Để chống lại cơn buồn ngủ dẻo dai, Ngài áp dụng phương pháp đi kinh hành (thiền hành) bước nhanh chân để đẩy lui cảm giác buồn ngủ. Khi hết buồn ngủ hoặc khi cơ thể mệt mỏi cần nghỉ ngơi, Ngài trở lại ngồi thiền.
Vào buổi sáng, khi đến giờ đi trì bình Ngài đắp vào bộ tam y - y nội, y vai trái và tăng già lê. Đeo cái bị đựng bình bát lên vai, Ngài đi vào làng, luôn luôn an trú trong chánh niệm làm việc đi trì bình trở thành một sự luyện tập nữa về niệm, liên tục theo dõi và kiểm soát tâm. Trở về đến nơi mà Ngài đang cư trú lúc bấy giờ, Ngài mới sớt thức ăn để ra ngoài. Thông thường, Ngài không nhận những vật thực dâng đến sau khi đi bát về mà chỉ thọ những vật thực nào mà thí chủ sớt vào bát trong khi đi trì bình. Chỉ đến lúc về sau, khi thật già yếu Ngài mới tự cho phép thọ nhận vật thực sau khi đi bát về.
^^^
7. Cách độ thực của Ngài
Một khi đã sớt trở lại bát một số lượng vật thực mà Ngài nghĩ rằng vừa đủ thì ngưng lại để quán về tính cách không đáng được ưa thích của vật thực (paccavekkhana) (2) . Quán tưởng như vậy là để ngăn ngừa ngọn lửa tham của ái dục (thèm khát và luyến ái vào những thức ăn mà ta ưa thích hương vị, và chán ngán, ghét bỏ những món nào mình không thích), không để cho ái dục khởi sanh, mà thấm nhuần ý tưởng rằng cơn đói làm cho cơ thể mệt mỏi là một chứng bệnh tự nhiên. Sau khi quán tưởng xong, Ngài bắt đầu dùng thức ăn trộn lẫn trong bát. Suốt trọn quá trình ăn, tâm chú niệm liên tục theo dõi canh phòng từng miếng, từng cử động, luôn luôn quán tưởng tính cách không đáng được ưa thích của vật thực. Đây là phương cách độ thực chân chính của một nhà sư. Sau khi thọ thực xong, Ngài rửa bát, lau chùi sạch sẽ và phơi ngoài nắng một ít lâu cho thật khô rồi mới để lại trong cái bao và cất một nơi an toàn, giữ cho bát khỏi hư bể.
Rồi cuộc chiến đấu trong nội tâm bắt đầu trở lại, ngày càng cố gắng tăng trưởng nỗ lực săn tìm và tiêu diệt ô nhiễm bên trong. Khỏi cần phải mô tả dài dòng ta cũng có thể hiểu rằng một cuộc chiến đấu như vậy ắt phải gặp khó khăn và thất bại dễ dàng như thế nào. Lắm khi người tấn công bị đánh bại, người đi săn lại bị săn. Ô nhiễm, lẽ ra phải bị tiêu diệt, lắm khi lại là người tiêu diệt, tất cả những nguyện vọng tốt đẹp và những lý tưởng cao cả mà người tu hành ôm ấp sâu kín từ lâu phải tiêu tan ra mây khói. Ô nhiễm quả thật là gian trá xảo quyệt và điêu luyện trong đường lối sử dụng quyền năng phá hoại của nó. Chính ngay trước mắt ta nó ru ngủ, quyến rũ ta lọt vào vòng thế lực của nó rồi kiềm giữ lại không cho thoát. Chỉ có Đức Phật là vị đầu tiên có khả năng tận diệt, tuyệt trừ ô nhiễm trong tâm Ngài. Đã vẻ vang thành tựu chiến thắng có tính cách cực kỳ quan trọng như vậy, với lòng từ bi vô lượng đối với chúng sanh đau khổ, Ngài không quản ngại gian lao phát quang đường Đạo cho những ai có tinh thần hướng đạo. Một số người muốn và dám bước theo dấu chân Ngài đã quả cảm và kiên trì dấn thân vào cuộc chiến với sự hỗ trợ của một niềm tin không lay chuyển và sau đó trở thành Tăng Bảo, ngôi báu thứ ba trong Tam Bảo, các vị Thánh đệ tử, trong ý nghĩa cao cả nhất của từ này. Ngài Phra Acharn Mun đã noi theo Con Đường ấy với tâm đạo nhiệt thành và niềm tin bất thối chuyển.
__________
(2). Quán tưởng rằng vật thực này chỉ để cho cơ thể được khỏe mạnh chứ không phải để cho có sắc đẹp, cho mập hay cho ốm, và chắc chắn không phải để thích thú.
^^^
8. Hạn chế của việc không có thiền sư tài giỏi hướng dẫn
Sau khi độ thực xong Ngài Acharn đi tới lui trên đường kinh hành rồi dành trọn thời gian còn lại trong ngày để diệt trừ ô nhiễm vốn trói chặt chúng sanh vào vòng luân hồi vô tận. Ngài không bao giờ để cho ô nhiễm chế giễu, khinh thường hay phỉnh gạt mình. Ngài luôn luôn tăng cường hành thiền định và tuệ minh sát của Ngài liên tục tăng trưởng mạnh mẽ, cả hai cùng được trau dồi và phát triển và đồng điệu với nhau. Hiếm khi định tâm của Ngài không được vững chắc và thọ hưởng hạnh phúc an lạc phát sanh từ đó. Tuy nhiên, cũng có lúc Ngài gặp phải những trở ngại hình như không thể giải quyết và cảm thấy rơi vào một đường cùng tối tăm. Vì thiếu một vị thiền sư tài giỏi hướng dẫn, Ngài chỉ có thể trông chờ vào những cuộc chiến đấu không ngừng của mình. Những cuộc chiến đấu này gây nhiều ngưng trệ trước khi có thể giải quyết vấn đề và chọc thủng, đi lọt qua con đường cùng tối tăm, và những trở ngại như vậy luôn hăm dọa tạo thêm hiểm nguy và tai hại. Điều này xác nhận sự thật về tầm quan trọng của người bạn lành (kalyāṇamitta, người bạn tốt, hay vị thầy giỏi) đối với người có nguyện vọng trau dồi tâm (mà Đức Phật cũng đã nhắc tới). Mặt khác, việc thiếu một người bạn lành (kalyāṇamitta) vừa gây nên ngưng trệ và hiểm nguy, và là một trở ngại nghiêm trọng của tất cả các hành giả.
Đôi khi trên bước đường du phương, Ngài cùng đi với Ngài Phra Acharn Sao là vị thiền sư của Ngài. Tuy nhiên, khi Ngài nhờ thiền sư Acharn Sao giải quyết khó khăn thì vị này chỉ nói rằng vấn đề ấy nằm ngoài kinh nghiệm của mình và do vậy không thể đề xuất cách giải quyết.
Ngài Acharn Sao nói: “Tâm của Sư thật là hiếu động và có khuynh hướng đi đến cực đoan. Khi thì bay bổng tận trời cao lúc thì độn sâu trong lòng đất, lúc khác nữa lặn xuống đại dương rồi vọt nhảy lên không trung trở lại. Trên thế gian này ai có thể kiềm chế, nắm giữ lại được một cái tâm như vậy? Sư phải tự mình kiểm thảo và giải quyết vấn đề khó khăn của chính Sư.”
Với lời khuyên như vậy, rõ ràng là Ngài phải dựa vào đức tinh tấn kiên trì của chính mình, dù có phải đau khổ như thế nào, trước khi có thể cuối cùng vượt qua mọi trở ngại chặn ngang trên đường Đạo!
Theo lời Ngài Acharn Mun, bẩm tính của Ngài Acharn Sao rất trầm tĩnh và vắng lặng. Khả năng đặc biệt duy nhất của Ngài Acharn Sao là trong khi ngồi thiền thân mình Ngài dâng bổng lên cao và Ngài cảm giác như mình đang bay trên không. Điều này làm cho Ngài ngạc nhiên và đâm ra hoài nghi. Một lần nọ, để kiểm tra cảm giác của mình, Ngài xuất thiền và mở mắt. Lúc ấy Ngài đang ở trên cao cách mặt sàn khoảng một thước, và xuất thiền thình lình như vậy làm Ngài té rơi bịch xuống sàn. Việc này làm Ngài đau xương chậu nhiều ngày. Lần sau Ngài thận trọng hơn. Khi cảm thấy thân mình bổng lên cao thì Ngài từ từ hé mắt trong chú niệm, không xuất hẳn ra khỏi thiền, và thấy mình vởn vơ bay bổng lên sàn nhà! Một lần nữa, để biết chắc chắn hơn, trước khi ngồi thiền Ngài nhét một vật nhỏ giữa hai lá buôn lợp trên nóc tịnh thất. Khi cảm thấy bay bổng mình lên thì Ngài không xuất thiền mà từ từ, với tâm luôn luôn chú niệm, lấy món đồ cầm nơi tay, rồi từ từ hạ mình xuống sàn. Thấy mình vẫn còn nắm món đồ trong tay Ngài mới tin chắc là mình đã bay bổng lên khỏi sàn nhà trong khi tọa thiền. Lẽ dĩ nhiên, không phải hiện tượng này xảy ra mỗi khi Ngài ngồi thiền nhưng chứng tỏ rằng nó đã có xảy ra mấy lần. Tuy nhiên, trên một phương diện khác, tâm của Ngài Acharn Sao không luôn luôn phóng nhảy và ương ngạnh khó kiềm chế như tâm Ngài Acharn Mun, và lối thực hành của Ngài cũng không ngoạn mục, rủi ro và phong phú trong phương thức và thành quả như của Ngài Acharn Mun.
^^^
9. Những phát nguyện trong quá khứ
Nghe nói rằng trong quá khứ Ngài Acharn Sao có lời nguyện sẽ trở thành một vị Phật Độc giác (Pacceka Buddha, cũng gọi là Bích Chi Phật) (3) . Vào những giai đoạn đầu tiên trong pháp hành, mỗi khi Ngài gia tăng nỗ lực thì lời phát nguyện xa xưa ấy chen vào và kiểm tra tiến bộ của Ngài theo hướng chứng đắc Đạo Quả Phật Độc giác. Phát nguyện ấy rõ ràng trở thành một chướng ngại, không để Ngài thành tựu “Chấm dứt đau khổ” trong kiếp sống này. Do đó Ngài quyết định bỏ lời nguyện ấy nhằm đặt xuống gánh nặng phải chịu sanh tử, tử sanh quá lâu dài trong vòng luân hồi và tập trung nỗ lực thành đạt mục tiêu tối hậu trong chính kiếp sống hiện tiền. Từ đó Ngài tiến bộ vững chắc và nhanh chóng hơn cho đến khi tới được bến bờ An toàn. Dù sao, Ngài không có nhiều tài năng trong nghệ thuật giáo hóa người khác, có lẽ bởi vì ý nguyện của Ngài là thành đạt Đạo Quả Độc giác Phật, tự mình giác ngộ nhưng không chú trọng nhiều đến việc chỉ dạy người khác. Đã có lời phát nguyện trong quá khứ nhưng lúc bấy giờ Ngài còn có khả năng thay đổi ý nguyện ấy có lẽ là vì lúc ấy ý nguyện của Ngài không thật sự quyết liệt đến mức không thối chuyển, và do đó còn có thể thay đổi.
Chính Ngài Acharn Mun cũng đã phát nguyện trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác. Chúng tôi có nghe Ngài nói như vậy. Nhưng rồi khi bắt đầu du phương sống hạnh đầu đà, Ngài từ bỏ ý nguyện ấy vì nhận ra rằng muốn thành đạt nguyện vọng cao cả như vậy phải mất hàng mấy a-tăngkỳ, trải qua nhiều kiếp sống-chết, chết-sống, triền miên quanh quẩn trong vòng luân hồi và chịu những khổ đau không thể tả. Cũng như trường hợp của Ngài Acharn Sao, trong những giai đoạn đầu tiên hành đạo, mỗi khi Ngài nỗ lực tinh tấn gia công thì có phát sanh những khuynh hướng do dự ngập ngừng, hướng về lời nguyện xa xưa. Sau khi quyết định từ bỏ lời phát nguyện ấy, Ngài mới cảm thấy nhẹ nhàng như đã đặt xuống gánh nặng và từ đó vững vàng tiến bộ trên Con Đường dẫn đến Đạo Quả. Sở dĩ Ngài có thể đổi hướng lời phát nguyện là bởi vì nó không đủ cứng rắn vững mạnh đến độ không thể đổi thay.
Trong những ngày hành đạo đầu tiên, hai Ngài thường đi chung với nhau đó đây đến các châu quận và tỉnh thành vùng Đông bắc. Mặc dù tâm tính và khuynh hướng khác nhau, hai Ngài vẫn thích đi chung với nhau. Ngài Acharn Sao thì ít nói, cho nên khi giảng dạy Ngài chỉ vắn tắt vài lời. Tâm Ngài không bay nhảy lanh lẹ và dũng mãnh như tâm Ngài Acharn Mun. Ngài ít kinh nghiệm về giáo huấn và cũng không thích dạy. Mỗi khi cần phải thuyết một thời Pháp, Ngài chỉ nói một cách cô đọng trong vài câu như: “Quý vị phải tránh làm điều ác và nên cố gắng tạo nghiệp lành. Không nên hoang phí kiếp sống làm người. Chúng ta hơn loài thú. Không nên hành động như thú, bằng không chúng ta còn tệ hơn loài súc sanh vì sau khi chết sẽ đọa vào địa ngục, còn khốn khổ hơn cảnh khổ của loài thú nữa.” Ngài chỉ nói vài lời như vậy rồi rời khỏi Pháp tọa và trở về tịnh thất, không quan tâm tới ai nữa. Đó là cái thường thấy ở những người như Ngài, cả ngày chỉ nói chừng vài ba câu. Nhưng hành động của Ngài thì thật sự là gương mẫu. Ngài nổi tiếng là có thể ngồi một chỗ trong nhiều tiếng đồng hồ. Thời kinh hành của Ngài cũng kéo dài nhiều tiếng. Dung mạo và tác phong của Ngài quả thật là tôn nghiêm và khả kính, luôn làm những ai đến gặp Ngài đều thấy hoan hỷ và kính phục.
Cũng như Acharn Mun, Ngài có rất đông đệ tử, trong hàng xuất gia cũng như trong giới tại gia cư sỹ.
Cả hai vị thiền sư này được biết là rất tôn trọng và kính nể lẫn nhau và cũng rất thân nhau. Thời gian đầu, hai vị thường ở chung và đi chung với nhau, trong mùa an cư kiết hạ cũng như trong những ngày thường. Chỉ đến lúc lâu về sau hai Ngài mới tách rời ở xa nhau, nhưng không xa cách lắm để có thể thỉnh thoảng thăm viếng nhau. Cũng là vì về sau số đệ tử của mỗi Ngài đều tăng ngày càng đông, nếu ở chung một nơi thì trở thành gánh nặng quá lớn cho thí chủ phát tâm cúng dường tứ vật dụng. Dù sao, cả hai vị đều lo lắng sức khỏe cho nhau, vị này lo cho vị kia. Mỗi khi có một thiện tín ở chùa kia đến đảnh lễ thì các Ngài thường thăm hỏi sức khỏe lẫn nhau. Các Ngài cũng thường nhờ đệ tử trao lời nhắn thăm của mình đến vị kia, luôn luôn nhắc đến đức độ của vị kia với những lời lẽ tôn kính cảm phục và mến yêu. Không bao giờ có lời chỉ trích hay khiển trách biểu lộ lòng phiền giận.
__________
(3). Vị Phật Độc Giác có khả năng thành Phật nhưng không đủ khả năng dẫn dắt người khác đắc Quả Phật. Chỉ Thành Đạo vào khoảng thời gian không có Giáo Pháp của một vị Phật trong thế gian.
^^^
10. Một cái tâm rất dũng mãnh và lanh lẹ
Ngài thiền sư Acharn Mun thấy lời góp ý thẳng thắn của Ngài Acharn Sao là đúng. Tâm của Ngài quả thật không chịu yên, luôn luôn phóng nhảy và rất năng động, do đó rất khó rèn luyện và kiểm soát. Nó có chiều hướng tiến đến cực đoan, không biết đâu là điểm quân bình – khi thì bay vọt lên tận trời cao, lúc lặn sâu thẳm trong lòng đất, rồi nhanh chóng vượt đại trùng dương. Ngay từ những ngày đầu tiên hành thiền, mỗi khi tâm Ngài đạt đến mức độ tĩnh lặng nào đó thì trong chớp nhoáng nó đã bị hút vào một ngoại cảnh nào đó, làm cho Ngài rất ngạc nhiên và thất vọng. Một trường hợp như vậy đã được ghi nhận ở phần trên – hình ảnh một xác chết đổi thành phong cảnh rộng lớn trong đó có vô vàn sắc tướng và hình thể khác nhau vô cùng tận liên tục xảy diễn. Thậm chí đến sau khi Ngài đã tìm ra cách đúng, tâm vẫn thường lẩn thoát vọt chạy khi nó đạt đến một mức độ nhất điểm nào đó. Nó “vượt ra”, hay biết nhiều điều mà trước kia Ngài không bao giờ mơ tới. Đôi khi nó phóng đến những cảnh trời, thưởng ngoạn trong mấy tiếng đồng hồ những lạc thú và những vinh quang trên đó. Có những lúc khác nó chìm xuống những khổ cảnh, đi vòng quanh nhìn xem và động lòng trắc ẩn, xót thương những chúng sanh đang đau khổ vì đã tạo nghiệp bất thiện trong quá khứ.
Nhiều lần Ngài tự dấn thân vào những cuộc “hành trình du ngoạn” như thế mà không để ý rằng mình đã phung phí bao nhiêu thì giờ. Vào lúc bấy giờ Ngài chưa được trang bị đầy đủ trí tuệ có thể phân biệt kinh nghiệm thực và những gì do trí tưởng tượng hay không thật. Về sau, Ngài khuyên dạy hàng môn đệ chỉ nên thử dấn thân vào những loại mạo hiểm như thế sau khi tâm đã được trí tuệ phân biện bảo vệ đầy đủ để ngăn ngừa sự thu hút không cần thiết và ảo tưởng. Đối với một cái tâm năng động và lanh lẹ, chỉ một khoảnh khắc bất cẩn thiếu chú niệm cũng đủ cho nó thoát chạy và hòa điệu với những tình thế khác nhau ở ngoại cảnh. Sau khi tâm đã được rèn luyện tinh thục và kiểm soát chặt chẽ, ta có thể chủ động gửi nó ra thâu nhận những thông điệp bên ngoài và chừng đó nó trở thành một bảo vật vô giá.
Vào những lúc ban sơ, khi Ngài còn chưa nắm vững được cái tâm lanh lẹ và vô cùng năng động thì nó thường trốn đi chơi và gây nhiều phiền phức. Ví dụ, khi Ngài bắt nó quán chiếu thân từ đỉnh đầu đến chân thì nó vụt chạy ra khỏi thân và chui xuống đất. Lúc khác, khi Ngài kéo trở về thân thì trong khoảnh khắc nó lại phóng lên không trung, vui vẻ hân hoan chạy tới nhảy lui, không có vẻ gì muốn trở về. Chỉ đến lúc vận dụng năng lực của niệm kéo nó về mới có thể làm cho nó vâng lời ở lại trong thân để dùng nó cho mục đích quán chiếu. Trạng thái tâm nhất điểm vào giai đoạn này vững chắc và thâm diệu đến mức niệm có thể theo kịp. Giống như một người bất ngờ rớt xuống vực sâu, trong khoảnh khắc đã lọt tới đáy, nhưng tâm chỉ ở tình trạng vững chắc và thâm sâu ấy trong giây lát. Rồi nó xuất ra khỏi đó và nhập vào một tầng an trụ thấp hơn gọi là upacāra samādhi, cận định (theo nghĩa từng chữ là: “nhập vào sự thênh thang quanh quẩn bên trong”), rồi nó thênh thang đó đây bất định không có kiểm soát, ngó nghiêng chỗ này chỗ nọ (trong nhiều tầng tâm thức khác nhau).
Lúc bấy giờ, Ngài rất bực mình khó chịu với cái tâm khinh thường mọi câu thúc, bởi vì nó còn lanh lẹ và dũng mãnh hơn sức kiềm chế của niệm. Vì đó là phần việc cá nhân thuộc về nội tâm của chính Ngài, và Ngài cũng không có ai để tham khảo ý kiến, điều này làm cho Ngài rất thất vọng trong một thời gian. Sức mạnh của niệm phải được phát triển và tăng cường để chống trả và khắc phục cái tâm luôn luôn bay nhảy. Thời kỳ nhất quyết chiến đấu chống lại cái tâm vô cùng năng động của mình quả thật là đau khổ và đáng chán. Nhưng con ngựa hoang dại trong tâm Ngài cuối cùng đã được chế ngự, và một khi đã chịu sự kiểm soát của Ngài và ngoan ngoãn nghe lời thì đó là một lợi thế vô giá. Sức mạnh cực kỳ huyền diệu của nó, cộng thêm niệm và tuệ, trở thành chiếc nhẫn thần có thể dùng trong nhiều việc bất ngờ và gần như trong mọi mục tiêu.
Ngài Phra Acharn Mun quả thật gan dạ và minh mẫn một cách cao quý. Ngài có những phương pháp rèn luyện rất hữu ích cho chính Ngài và cho người khác. Về khía cạnh này trong đức tính của Ngài, quả thật không ai trong hàng môn đệ có thể sánh bằng. Người viết đã sống với Ngài Acharn Mun và đã tự bản thân chứng nghiệm, có thể khẳng định rằng Ngài quả là có một không hai. Về tính cách, Ngài là người rất hào hiệp và cũng cứng rắn không kém và không hề nao núng trong cách thực hành. Những phương pháp Ngài dùng để thuần hóa con ngựa tâm hoang dại thay đổi một cách khéo léo để thích ứng với hoàn cảnh, đôi khi cứng rắn hăm dọa, lắm lúc dịu hiền với lời chỉ dạy nhẹ nhàng, để điều hợp với cái tâm nhiều khả năng và rất ương ngạnh, chống lại mọi cố gắng để uốn nắn nó. Đó là loại tâm luôn luôn nghĩ ra vô số lý do và những việc đen tối nhằm làm thối chí hoặc xao lãng mỗi khi hành giả lơ đễnh không canh phòng, dù trong khoảnh khắc.
Tất cả những khổ ải và tất cả những đình trệ này, theo Ngài Acharn, là vì không có một vị thầy đầy đủ khả năng hướng dẫn hoặc ban cho một vài gợi ý hữu ích, chỉ dẫn nên theo cách nào. Lối sống của Ngài thật sự là lối sống của con người tự lập phi thường, không bao giờ cho phép mình chùn bước trước một trở ngại trên đường Đạo. Đây là trường hợp một dũng sỹ đơn độc, can đảm và bền gan chiến đấu chống lại những sức mạnh to lớn như núi đang bao vây mình. Không có một chiến sỹ nào mà Ngài biết được đã trải qua đoạn đường khó khăn này để có thể cho những bài học giúp cho Ngài đỡ mất thì giờ. Ngài thường nhắc nhở chư môn đệ điểm lợi ích mà họ đang được hưởng khi được ở cùng với Ngài và được Ngài khuyên bảo. Ngài khuyến cáo họ không nên quá tự tin và bất kỳ khi nào có hoài nghi thì có Ngài sẵn sàng ở đó để giúp đỡ và chỉ dạy.
Trong những ngày đầu tiên hành thiền Ngài Acharn đi đến thị trấn biên giới Nakorn Phanom rồi qua vùng núi tỉnh Tha Kaek của vương quốc Lào, nơi đây Ngài đã đạt được ít nhiều thanh bình an lạc trong tâm. Khu này có nhiều cọp dữ, người ta nói rằng cọp ở đây dữ hơn cọp Thái Lan, phần lớn ăn thịt người và thường tấn công người Việt Nam cư ngụ trong vùng. Dù sao những người này xem hình như thờ ơ, không mấy lưu tâm đến. Hình như không bao giờ họ học được bài học tự vệ, mặc dù vài người bạn đã bị cọp tha đi trước đó không lâu ngay trước mắt họ. Họ lại tiếp tục mạo hiểm vào những nơi mà người ta nói có nhiều cọp dữ đang gầm thét, những nơi mà bạn của họ bị cọp tha đi mấy ngày trước. Có lẽ đây là trường hợp “thân quá hóa nhờn.”
Có một điều kỳ lạ là những người Việt Nam này không bao giờ hợp nhau lại để cứu một người bạn đang lâm nguy. Trong khi lưu ngụ nơi nào trong rừng để nghỉ qua đêm chẳng hạn, nếu người nằm gần đó bị cọp tấn công thì những người khác tung ra bỏ chạy tứ phía, mạnh ai người nấy tìm cách thoát thân, mặc cho nạn nhân ở đó cho số phận. Rồi không bao lâu sau, họ hợp nhau trở lại gần đó để nghỉ đêm, hoàn toàn thờ ơ, không nhớ gì đến thảm kịch rùng rợn mà họ trải qua trong đêm trước. Hình như họ không thông minh hơn trẻ con, không rút kinh nghiệm và đơn giản là không có tim. Người viết có một vài kinh nghiệm và quen biết những người này, có thể nói như vậy.
Người ta nói mấy người Việt Nam này đôi khi vào chặt và kéo cây gỗ ở các miền hẻo lánh xa xôi trong rừng sâu đầy cọp dữ. Đơn độc một mình hay từng nhóm, họ ở qua đêm mà không có dấu hiệu gì sợ hãi. Ban đêm họ đi vào làng hay từ làng về chỗ tạm trú, họ đi một mình, hoàn toàn thản nhiên. Hỏi họ đi như vậy có sợ không, họ nói cọp Thái Lan không ăn thịt người, vài con lại còn sợ người nữa. Họ nói bên xứ họ cọp lớn hơn nhiều và thường ăn thịt người. Chúng dữ hơn và người đi đường mà muốn ở lại nghỉ đêm phải dựng lên một cái thum như chuồng heo. Ở một vài nơi dân làng không dám ra khỏi nhà ban đêm. Cọp có thể tấn công người mà không sợ gì hết. Họ cho rằng mấy người Thái không dám vào rừng là nhát gan.
Dù sao, trong lúc Ngài Phra Acharn Mun lưu ngụ tại một nơi đầy cọp dữ, không có con nào quấy rầy Ngài. Chỉ thấy có dấu chân và ban đêm nghe được tiếng gầm đâu đó, không có con cọp nào thật sự đến làm cho Ngài sợ hay ăn thịt Ngài. Chính Ngài cũng không mấy quan tâm đến cọp, bởi vì Ngài đang lo không Chấm Dứt Đau Khổ trong kiếp sống này còn hơn là sợ những con thú dữ ấy. Ngài thường kể lại cho đệ tử nghe những cuộc du hành trong vùng đất nguy hiểm, xem những cuộc đi và những đêm lưu trú như vậy không có gì là lạ hay khác biệt với những nơi khác. Không bao giờ Ngài nói gì đến kinh sợ.
Ngài Phra Acharn Mun đi khắp đó đây trong các làng mạc và thị xã vùng Đông Bắc từ lúc mới bắt đầu hành thiền cho đến khi có đủ sức kháng chống lại sự thất thường đặc thù của cái tâm quá năng động của Ngài, cũng như những kích thích của ngoại cảnh. Sau đó Ngài đi dần xuống vùng trung phần xứ Thái và nhập hạ tại Wat Pathoomwan. Nơi đây Ngài thường đến thọ giáo, và tham khảo ý kiến với Ngài Chao Khun Phra Upāli Guṇūpamācariya (Siricando) chùa Wat Boromnivas tại Bangkok.
Sau mùa an cư kiết hạ, Ngài lên thị xã Lopbury và lưu ngụ tại nhiều động đá như động Phaikwang, núi Khao Phra Ngam và động Sinto (Sư tử). Ở tất cả những nơi này Ngài tăng cường nỗ lực, thường xuyên trau dồi thiền định và thiền tuệ. Tâm Ngài đều đặn vững chắc dũng mãnh chống trả những ảnh hưởng của nội tâm và ngoại cảnh với thiền định phát triển khả quan và tuệ minh sát càng sắc bén sâu đậm tương ứng. Đối với cái tâm như thế, tất cả mọi sự vật đều là sự rèn luyện và bài học nhằm nâng lên một tầng cao hơn, tuệ minh sát càng thâm sâu hơn. Thỉnh thoảng Ngài đi đến chùa Wat Boromnivas để thọ lãnh những lời khuyên của Ngài Phra Upāli, rồi Ngài lại ra đi, tìm nơi vắng vẻ, lần này đến động Sarika tại Khao Yai (Núi lớn) trong tỉnh Nakhorn Nayok.
^^^
11. Mạo hiểm tại động Sarika
Ngài lưu ngụ tại động Sarika một năm, và những gì xảy ra trong thời gian ấy đặc biệt đáng chú ý cả về chuyện xảy ra bên ngoài và phát triển nội tâm. Khi đến một ngôi làng ở gần động, tên làng này có lẽ là Bahn Kluey, Ngài nhờ dân làng đưa đến động ở trên núi. Tuy nhiên, người trong làng không muốn đưa Ngài đi. Họ nói rằng nơi ấy rất khủng khiếp và họ kể cho Ngài nghe chuyện nhiều vị sư trước kia đã đến đó cư ngụ và ngã bệnh trầm trọng phải dời đi. Vài vị đã chết vì bệnh. Người ta tin rằng một con Quỷ Lớn có nhiều uy quyền đã chiếm cứ động ấy làm của riêng. Con Quỷ Lớn ấy dùng thần lực chống lại bất cứ ai đến trú ngụ tại động “của nó”, nhiều khi làm người ta sợ đến chết. Dường như nó thích thách thức những vị tỳ khưu nào dám lai vãng vào lãnh thổ của nó, dù vị ấy khôn ngoan tài giỏi, bùa phép hay huyền thuật thế nào, rồi cũng thình lình lâm trọng bệnh, hoặc chết sớm một cách bất ngờ. Dân làng không muốn đưa Ngài đến đó, e rằng Ngài cũng sẽ vong mạng như bao nhiêu vị tỳ khưu trước.
Ngài Acharn Mun hỏi dân làng con Quỷ Lớn ấy làm thế nào cho mình biết nó. Họ nói rằng ngay trong đêm đầu, bất cứ ai đến cư ngụ tại động sẽ nằm mơ thấy con quỷ to và đen ấy đến với họ, mặt nó nhăn lại trông dữ tợn lộ vẻ muốn giết mình. Rồi con Quỷ Lớn tuyên bố rằng nó là chủ, là thần bảo vệ động, là người duy nhất thống trị lãnh địa này. Nó sẽ không dung tha kẻ xâm phạm và sẽ tức khắc đánh đuổi bất kể ai xâm nhập vào lãnh thổ của nó, và đa số những người mạo hiểm vào đó đều không ở được lâu. Nghe nói có vài vị đã rời ngay sau đêm đầu tiên, mặt mày hốt hoảng kinh sợ gần như điên, thề không bao giờ trở lại nữa. Những vị khác thì chết luôn trong đó. Cách đây không lâu có bốn vị tỳ khưu, khoe mình bùa phép cao cường khi mới đến, cùng lên động và rồi không bao giờ thấy các vị ấy nữa.
Đó là câu chuyện động Sarika, nơi mà người ta đồn là có chứa một miếng kim loại nhiều thần lực, làm nhiều người muốn lên động, nhưng chẳng có ai tìm được gì.
Câu chuyện của dân làng không làm cho Ngài Acharn Mun ngã lòng. Ngài nhất quyết đến tận nơi để chính tự mình diện kiến bất cứ gì xảy ra. Thay vì bị cơn sợ áp đảo, Ngài xem đó là cơ hội để trau dồi chú niệm và học những bài học quý giá. Ngài khiêm tốn nói với dân làng rằng câu chuyện mà họ tường thuật quả thật vô cùng khủng khiếp nhưng Ngài vẫn muốn lên đó một lần. Nếu thấy quá đỗi ghê sợ Ngài sẽ trở về, nhưng Ngài muốn người làng đưa đến đó. Ngài nói đã từ lâu Ngài có ý định đến ngắm cảnh ngoạn mục của chốn này, và vì Ngài vẫn yêu cầu, dần làng cuối cùng bằng lòng đưa đi.
^^^
12. Dấu hiệu nhuốm bệnh đầu tiên
Hai ba đêm đầu tiên ở động không xảy ra chuyện gì, thân và tâm Ngài nghỉ ngơi thoải mái do cảnh vật hoàn toàn yên vắng và cô tịch. Chỉ thỉnh thoảng có tiếng kêu của vài con thú hoang trong khu rừng. Qua đêm hôm sau, Ngài bị đau bụng, chứng bệnh mà trước kia đã có lần bị, nhưng lần này hình như trầm trọng hơn nhiều. Đôi khi Ngài đại tiện ra máu và có vẻ như hoàn toàn không tiêu được thức ăn, ăn gì tiêu ra y như vậy. Ngài nhớ đến lời kể của dân làng về câu chuyện bốn vị tỳ khưu đã chết tại đó. Ngài nghĩ rằng nếu bệnh mãi kéo dài thế này, rất có thể Ngài là vị tỳ khưu thứ năm. Vào buổi sáng, khi vài dân làng ghé lại viếng thăm, Ngài nhờ họ lấy rễ và cây quanh động sắc cho một món thuốc nam, nhưng thuốc vô hiệu. Tình trạng đau bụng ngày càng thêm trầm trọng, thân càng yếu dần và ý chí rõ ràng mòn mỏi. Trong khi uống thuốc, Ngài cố gắng tự khích lệ mình, nghĩ rằng nếu đúng thuốc ắt nó phải có công hiệu, nhưng sau nhiều ngày vẫn không thấy hiệu quả gì. Vậy thì uống thuốc nữa ích gì?
Nghĩ đến đấy, Ngài quyết định ngưng uống thuốc thông thường, mà tìm cách chỉ tự chữa trị bằng Giáo Pháp, dù thân có thế nào. Ngài tự nhủ: “Hãy để cho thân này chết tại đây, trong động này, nếu sức mạnh của Pháp không đủ để chữa trị. Ta đã tiến bộ khá xa trong pháp hành để vững lòng tin nơi Đạo, Quả, và Niết Bàn. Tại sao ta thối chí và suy nhược vì cơn đau khổ này? Nếu mới có từng này đau khổ mà ta đã chịu thua thì còn hy vọng gì khi thể xác tan rã, khi hết cơn đau này đến cơn đau khác dồn dập đập tan các vòng phòng thủ của ta ra từng mảnh?”
Nghĩ như vậy, Ngài ngừng uống thuốc và bắt đầu hành thiền, chỉ nương nhờ nơi oai lực của Giáo Pháp để chữa trị. Bám níu vào sự sống được buông bỏ, nhờ đó thân được phép trải qua quá trình chữa bệnh tự nhiên của nó. Chú niệm và trí tuệ cùng hợp với đức tin và tinh tấn đập mạnh vào tâm, cái tâm vốn không chết nhưng luôn sợ chết. Không còn quan tâm đến bệnh xem có chữa được nó hay không, hoặc nó có hủy hoại cơ thể này không nữa, mà mắt phân tách của trí tuệ hướng vào vedanā (cảm giác hay cảm xúc đau khổ), và các tập hợp khác (uẩn, khandha) được phân tích cặn kẽ. Thân (rupā, sắc), cảm giác (vedanā, thọ), nhận thức (saññā, tưởng), và hoạt động tâm linh (saṅkhāra, hành), tất cả đều được phô bày tỏ rõ để niệm và tuệ khảo sát tỉ mỉ, liên tục đào sâu và khám phá thêm nhiều chân lý uyên thâm. Cuộc chiến ác liệt bắt đầu từ hoàng hôn đến nửa đêm và chấm dứt với cái tâm đầy năng lực, đủ khả năng nhận thức bản chất thiên nhiên của các uẩn, luôn cả nỗi đau đớn nhức nhối muôn phần tự nó biểu hiện trong thân. Cơn bệnh hoàn toàn tan biến và tâm Ngài an trú trong trạng thái tuyệt đối không lay chuyển của nhất điểm tâm.
Đến đây chấm dứt ba điều: nỗi đau nhức, cơn bệnh, và sự phản ứng của tâm. Sau đó, khi tâm xuất ra khỏi trạng thái ấy và trở vào một trạng thái kém thâm sâu hơn, phản ứng nhiều hơn đối với thân gọi là upacāra (cận định) thì hình như có một ánh sáng phát ra từ thân Ngài và do ánh sáng ấy Ngài thấy một người đen đúa to lớn độ mười thước bề cao. Người ấy cầm trong tay một thiết trượng dài khoảng bốn thước và to khoảng bằng chân ông ta. Người ấy hầm hừ đến gần Ngài và nói, “Nếu Sư không rời khỏi chỗ này tôi sẽ đập nát Sư với cây thiết trượng to lớn này. Tôi đã từng đập nát một con voi chỉ bằng một trượng thôi.”
Ngài Acharn Mun đàm thoại với người ấy bằng thần giao cách cảm. Ngài hỏi, “Tại sao ông muốn giết tôi? Nào tôi có làm gì sai quấy. Vì sao tôi đáng phải chịu tử hình trong khi không làm gì tổn hại ai ở đây?”
Con Quỷ to trả lời, “Từ lâu ta được phép cai quản hòn núi này và sẽ không dung tha kẻ nào dám thách thức hoặc cố gắng khuất phục ta.”
“Nhưng nào tôi có thách thức ai, tôi cũng không cố gắng khuất phục ai.” Ngài Acharn nói, “Tôi đến đây chỉ để thách thức và khuất phục những ô nhiễm ngự trị trong tâm con người. Ông không nên gây tổn hại đến tôi là một tỳ khưu, đệ tử của Đức Phật mà tâm từ tỏa rộng khắp tam giới.” Rồi Ngài nói tiếp, “Nếu thật sự ông có nhiều thần thông như đã khoe, vậy thì ông có bùa phép nào vượt ra ngoài Nghiệp (Kamma) và Giáo Pháp (Dhamma), vốn là những định luật rộng lớn chi phối toàn thể chúng sanh trong tam giới?”
“Không”, quỷ trả lời.
“Đức Phật có quyền năng diệt sạch trong tâm Ngài lòng ham muốn thống trị và làm hại người khác. Ông có quyền năng như vậy không?”
“Không”, quỷ thú nhận.
Ngài Phra Acharn Mun mở lời khuyên dạy, chỉ rõ cho con quỷ thấy rằng năng lực của nó, nếu có, thì cũng là thô và tàn bạo, chỉ gây tổn hại cho chính nó. “Năng lực như thế chỉ đem lại kết quả đáng sợ, vì ông không nhận thức được rằng trong khi tiêu diệt người khác, ông chỉ tàn phá chính ông. Đó quả thật là gây nghiệp bất thiện rất nặng. Tôi là một tỳ khưu, noi theo con đường chân chính vì lợi ích cho cả tôi và những người khác. Đó là ước nguyện của tôi. Bây giờ ông đến với ý định gây tổn thương và giết tôi mà không nghĩ rằng tội ác này sẽ lôi ông vào khổ cảnh. Tôi không lo ngại nhiều cho đời tôi nhưng thương ông sẽ phải bị sa đọa vì lầm tin nơi quyền năng huyền ảo của mình. Hãy dừng tay lại và suy ngẫm, xét coi trên thế gian này có quyền năng nào có thể chống lại hậu quả của nghiệp bất thiện mà ông sắp thực hiện không? Ông có quyền năng nào đối với hòn núi này mà cao hơn Nghiệp và Giáo Pháp không? Nếu có thì ông muốn làm gì tôi cũng được. Tôi không sợ chết vì dù sao tôi cũng phải chết khi thời điểm đến, dù ông có cố gắng giết tôi hay không. Thế gian này là nơi của những người phải chết, trong đó có cả ông, ảo tưởng về sức mạnh nhất thời của mình.”
Trong suốt thời gian Ngài Acharn Mun khuyên dạy, quỷ hình như chết cứng, không cử động hoặc nói nên lời. Nếu nó là người thì ắt sợ hãi khủng khiếp và xấu xa hổ thẹn trong sự thất bại của mình. Nó say mê đứng lắng tai nghe đến cùng những lời vừa dạy vừa khiển trách của Ngài Acharn. Sau cùng nó vứt bỏ thiết trượng xuống, hàng phục và hóa thành một Phật tử hiền lành với tâm đạo nhiệt thành theo cỡ một người thường, và tạ lỗi cùng Ngài vì đã có những cử chỉ cục cằn vô lễ và những ý định hung tợn xấu xa.
Quỷ nói, “Vào mấy hôm trước, khi vừa thấy Ngài thì tôi đã hết sức kinh ngạc và bất ngờ. Tôi bị một làn ánh sáng mạnh mẽ và kỳ diệu hình như từ thân Ngài phát ra quật mạnh vào. Nó có một hiệu lực lạ thường làm suy yếu và tê liệt những ý định hung bạo của tôi. Giây phút bị bao phủ trong làn ánh sáng vô cùng cảm kích ấy tôi cảm thấy nhàm chán, không còn muốn làm gì xúc phạm đến Ngài. Tôi không hiểu tại sao. Tôi chưa bao giờ cảm thấy như vậy. Dù sao Ngài có thể tin chắc một điều là các hăm dọa của tôi chỉ là giả vờ, không thật. Những ma quỷ trong vùng này coi tôi là chúa. Tôi phải làm ra vẻ như vậy để họ thấy quyền uy. Chúng tôi thường dùng năng lực để làm những việc xấu xa hung tợn. Đã là chúa tể thì dù muốn dù không, tôi phải làm gì đó để bảo vệ danh tiếng của mình. Sau khi đã được tắm sạch trong ánh sáng ấy, tôi không còn có ý định nào muốn làm tổn thương Ngài. Cầu xin Ngài Acharn từ bi tha thứ những lỗi lầm nào mà tôi đã phạm đến trong ngày hôm nay. Cầu xin Ngài mở lượng khoan hồng làm nhẹ bớt, vơi đi gánh tội lỗi nặng trĩu, quá nặng mà tôi đã mang trên vai.”
Rồi Ngài Acharn hỏi quỷ - giờ đây là một thiện nam nhiệt thành - xem có phải chịu đau khổ không vì có thân phi vật lý, không phải kềnh càng nặng nhọc như người. Ngoài ra, không phải vất vả làm ăn sanh sống hay tìm chỗ trú ngụ như người.
Người thiện nam sùng đạo trả lời, “Nhìn ngoài mặt thì hình như vậy, nhưng thật sự nói cho đúng không cảnh giới nào là khỏi đau khổ một cách tuyệt đối. Khổ nhiều hay khổ ít, vẫn phải khổ.”
Cuộc đàm thoại giữa quỷ và Ngài Acharn còn kéo dài về vấn đề thần bí, nhưng quá thâm sâu để có thể ghi lại hết nơi đây. Tác giả xin thành thật cáo lỗi cùng bạn đọc về sự thiếu sót này.
Khi cuộc đàm thoại chấm dứt, vị thiện nam huyền bí, trước kia là con quỷ hung tợn, lấy làm cảm kích với giáo huấn của Đức Phật, xin quy y Tam Bảo với Ngài Phra Acharn, và tự xem mình là một Phật tử, đệ tử của Ngài. Ông hứa sẽ hết lòng bảo vệ Ngài và bày tỏ lòng chân thành ước mong Ngài lưu ngụ vĩnh viễn tại động, ông sẽ canh phòng không để ai phá quấy làm hại Ngài. Trong thực tế ông ta không phải là con quỷ đen to lớn, mà chỉ giả dạng hiện ra cho Ngài Acharn trông thấy trong khi ngồi thiền. Thật sự ông là người đứng đầu chư thiên trên quả địa cầu (rukkhadeva, đúng theo nghĩa từng chữ là thần cây) với một nhóm đông tùy tùng trong vùng rừng núi của nhiều thị trấn trong vùng, như tỉnh lỵ Nakkhorn Nayok.
Ngài Acharn nhập toàn định (appaṇā samādhi, trạng thái tâm vững chắc an trụ vào đề mục) vào khoảng nửa đêm. Lúc xuất ra khỏi trạng thái ấy Ngài đàm thoại với con quỷ hối cải đến bốn giờ sáng. Khi Ngài xuất ra khỏi trạng thái cận định (upacāra samādhi) để nói chuyện thì cơn bệnh đau nhức hoành hành trước khi nhập định đã hoàn toàn tan biến. Bây giờ Ngài không cần dùng thuốc theo quy ước chế định của thế gian mà tự chữa trị bằng sự hiệu quả trị liệu của Giáo Pháp (Dhamma). Ngài tiếp tục hành thiền đến sáng, không cần ngủ nghỉ vì những mệt mỏi đau đớn lúc trước đã được thay thế bằng sức mạnh và sanh lực.
Ngài Acharn lúc bấy giờ cảm nhận và hiểu biết nhiều điều kỳ diệu cùng một lúc. Trước tiên, oai lực của Giáo Pháp với khả năng cảm hóa một chúng sanh trong cảnh vô hình, đem họ về Con Đường Chân Chánh; thứ nhì, tâm Ngài đã nhập vào trạng thái không lay chuyển, hạnh phúc an lạc trong nhiều giờ, trong thời gian ấy bao nhiêu điều huyền diệu của tâm cao thượng đã tràn ngập đến Ngài; thứ ba, chứng bệnh trầm kha làm cho Ngài khó chịu trong nhiều ngày đã hoàn toàn chấm dứt; thứ tư, tâm Ngài đã đạt đến một tầng mà nhiều hoài nghi đã được sáng tỏ; thứ năm, vật thực mà Ngài độ sau đó trong buổi sáng đã được tiêu hóa bình thường; và cuối cùng, nhiều loại kiến thức đã phát sanh đến mà trước kia không bao giờ Ngài mơ tưởng, cả cho việc diệt trừ ô nhiễm và cách áp dụng những phương pháp ấy để diệt trừ ô nhiễm cho những cá nhân có tâm tính hay khuynh hướng khác nhau.
Các đêm sau, Ngài an nghỉ yên lành với tâm hỷ lạc tĩnh lặng và thân hoàn toàn khỏe mạnh, không còn chi khuấy động nữa. Quá nửa đêm, Ngài tiếp đón một nhóm đông chư thiên trên quả địa cầu từ nhiều nơi trong vùng được vị thiện tín trước kia là quỷ, người cầm đầu của họ, hướng dẫn đến đảnh lễ. Lúc nào không có khách thì Ngài vui trong hỷ lạc từ nỗ lực tinh tấn hành thiền.
^^^
13. Gặp một bầy khỉ
Một buổi chiều nọ, sau thời ngồi thiền, Ngài Acharn ra khỏi động để nghỉ ngơi, ngồi trước động không xa. Ngài suy niệm về Giáo Pháp mà Đức Phật đã khám phá và ban truyền cho nhân loại, thấy rằng Giáo Pháp ấy quả thật thâm sâu huyền diệu mà nhiều người khó hiểu và khó làm theo. Ngài nghĩ quả là một sự kỳ diệu nhiệm mầu, một phước lành cho Ngài hiểu, đi theo và nhờ đó chứng ngộ nhiều chân lý của Giáo Pháp. Trạng thái chứng ngộ của Ngài chưa được trọn vẹn như mong mỏi, nhưng có phần khá chắc chắn rằng Mục Tiêu Cuối Cùng sẽ sớm thành tựu nếu Ngài không yểu mạng.
Ngài suy niệm như thế về nhiều khía cạnh của Giáo Pháp: Đạo, Quả và trạng thái Trọn Vẹn Chấm Dứt Đau Khổ. Trong khi ấy một đàn khỉ đông đảo đi ngang qua. Khỉ đầu đàn đi trước không xa, chợt thấy Ngài Acharn ngồi liếc nhìn nó. Có lẽ lấy làm ngạc nhiên thấy cái gì ngồi đó, nó nhảy nhót qua lại, tới lui trên cành, nhưng lòng hoài nghi không biết Ngài làm gì đây và lo ngại cho sự an toàn của đàn. Ngài Acharn có thể hiểu cảm xúc của khỉ đầu đàn và lấy làm thương hại. Ngài bắt đầu rải tâm từ (mettā) cho nó và bằng tâm Ngài cho nó hiểu rằng Ngài là người đi theo con đường của Giáo Pháp, không bao giờ làm hại ai, cũng không bao giờ làm tổn thương chúng sanh nào, rằng đàn khỉ không nên sợ, cứ tự do đi lại khắp chốn này và tùy ý lưu lại bao lâu cũng được.
Khỉ đầu đàn vội vàng chạy trở lại bầy, ríu rít kêu “Koke!”, có nghĩa “Coi chừng! Có gì kìa!” Đàn khỉ chưa thấy gì, ríu rít trở lại, “Koke!” “Ở đâu!” Khỉ đầu đàn kêu “Koke!”, “Kìa!” và quay mặt về hướng Ngài Acharn, giống hình như muốn chỉ “nó” đó.
Lẽ dĩ nhiên, đối với người thường, ngôn ngữ của thú quả thật quá bí ẩn, nhưng Ngài Acharn hiểu được. Khỉ đã ra dấu hiệu báo động cho bầy, con đầu đàn bảo mấy con kia không nên hấp tấp và phải thận trọng, rồi nó quay lại xem cho tận tường “vật gì” ở trước động. Khỉ đầu đàn bỗng nhiên sợ hãi, vừa tò mò vưa lo lắng cho tình trạng an ninh của đàn, vẫn còn đang chờ ở phía sau. Nó nhảy nhót tới lui trên cành một ít lâu, cách Ngài Acharn độ hai mươi thước, trong khi Ngài dùng tâm theo dõi quan sát những cảm xúc và tư tưởng của nó. Cuối cùng khỉ nhảy về báo tin cho đàn bằng giọng kêu rõ ràng “Koke”, “Cứ tiếp tục đi tới!” “Bây giờ không còn nguy hiểm nữa!”
Theo Ngài Phra Acharn, nếu ta có thể hiểu được những tiếng ríu rít của khỉ, cảnh này vừa buồn cười vừa đáng thương. Đối với người thường, tiếng kêu khọt khẹt của khỉ nghe chừng như không có gì lạ và do đó không có ý nghĩa gì. Nhưng đối với Ngài Acharn tiếng kêu qua lại của khỉ thật rõ ràng và có ý nghĩa như tiếng nói của người. Từ lúc khỉ đầu đàn nhận thấy Ngài ngồi ở đó, giọng kêu của nó khác biệt rõ ràng.
“Koke!” “Hãy nhìn kìa!” khỉ đầu đàn kêu.
“Koke!” “Cái gì đó” “Koke!” “Có việc gì?” đàn khỉ hỏi lại.
“Koke! Kake!” “Có vật gì kìa! Có thể là nguy hiểm!” khỉ đầu đàn cho hay, và dấu hiệu báo động được tiếp nối loan truyền trong bầy. Tiếng xôn xao ồn ào vang dậy và bầy khỉ bồn chồn rối rít nhảy nhót ngược xuôi, mỗi con chích choét tới lui hỗn loạn. Rất giống một nhóm người đang lo sợ một hiểm họa sắp đến và đang rối loạn.
Khỉ đầu đàn cố gắng trấn an bằng những tiếng kêu “Koke!” “Chờ đây! Tôi sẽ đi xem xét một lần nữa.” Nó trở lại nơi Ngài Phra Acharn ngồi và theo dõi, quan sát tỉ mỉ cả tính cách và cử động của Ngài. Giờ đây, thấy chắc rằng Ngài vô hại và bầy khỉ sẽ được an toàn, nó trở lại đàn và kêu, “Koke! Kake!” “Không có hiểm họa! Cứ tự nhiên tiến hành!” Rồi tất cả bầy khỉ cùng đi đến nơi Ngài Acharn ngồi, chúng nó nhảy lên nhảy xuống nhìn Ngài một cách hoài nghi và hỏi với nhau Ngài là ai, tại sao đến ngồi đây.
Đoạn này của câu chuyện được tường thuật đúng như Ngài Acharn đã kể lại cho các đệ tử nghe, nhằm cho người đọc ý niệm rằng tiếng kêu chích choét của bầy khỉ vẫn có ý nghĩa và chúng vẫn nói chuyện, truyền cảm, và hiểu lẫn nhau. Dù sao ta có thể hiểu được tại sao loài thú này vẫn nghi ngờ con người vì chúng thường là nạn nhân của bao cái bẫy, bao nhiêu hành động tàn ác của loài người. Vì thế, không thể nào chúng nó không nghi kỵ Ngài Acharn mà ríu rít cò ke giống như con người nói chuyện với nhau.
Một ít lâu sau, khỉ yên tâm sống thoải mái và không quan tâm đến “vật” mà chúng nó biết là không làm tổn hại chúng. Kể từ đó bầy khỉ tự do nhảy nhót quanh quẩn và Ngài Acharn tiếp tục lưu ngụ tại đó, thoải mái và an lạc.
Phương cách sanh tồn “sống và để người khác sống” theo đó mỗi chúng sanh có thể sống hòa hợp với các chúng sanh khác mà không nghi kỵ lẫn nhau, chính tự nó là trạng thái hữu phúc an lạc. Ta thường thấy rằng nơi nào có các vị tỳ khưu hành đầu đà tu ẩn dật ở rừng sâu thì nơi đó thú rừng lớn hay nhỏ, tụ họp về từng đàn rất đông. Hình như chúng được thu hút vào vầng hào quang từ bi của Ngài, và cũng như loài người, chúng thích nơi trú ẩn an toàn. Loài thú khác với con người là chúng không đầy đủ sáng suốt, do đó chỉ được bản năng sanh tồn dẫn dắt và hàng ngày chỉ có những ý nghĩ mưu tìm thức ăn và chỗ ở.
^^^
14. Nỗi buồn vô hạn
Một đêm, Ngài Acharn cảm thấy vô cùng buồn (saṁvega) (4) tràn ngập, làm Ngài cảm động đến tuôn nước mắt. Khi ấy, vào lúc hành thiền, tâm hoàn toàn an trụ trong trạng thái nhất điểm, Ngài quán niệm về bản chất của thân. Ngài đạt được mức độ buông bỏ rất vi diệu khi tâm ở vào trạng thái “vắng lặng” hoàn toàn. Lúc bấy giờ đối với tâm Ngài, toàn thể thế gian đã tan biến. Khi xuất ra khỏi trạng thái thâm sâu ấy, Ngài quán niệm Giáo Pháp và Giới Luật (Dhamma và Vinaya) mà Đức Phật đã ban truyền nhằm phá tan vô minh (avijjā) trong tâm con người. Càng quán niệm Giáo Pháp, Ngài càng nhận thức rằng Giáo Pháp quả thật vô cùng huyền diệu, vô cùng thâm sâu, và càng thấy rõ bản chất vô minh của con người trong đó có Ngài. Người ta cần được dạy phải ăn, ngủ và phế thải những chất dư thừa như thế nào; họ cũng cần được dạy phải đi, đứng, cử động, mặc quần áo, tắm rửa như thế nào v.v., đó là những phương cách để giữ gìn sức khỏe cho cả thân lẫn tâm. Nếu không được dạy từ trước thì tất cả mọi người, không phân giai cấp, chủng tộc hay quốc tịch, đều có khuynh hướng làm sai và do đó chồng chất thêm đau khổ cho mình. Con người cũng như trẻ con, cần phải được người lớn dạy dỗ và hướng dẫn trước khi có thể phát triển cân bằng và khỏe mạnh.
Và đối với tâm vô minh, tính tự kiêu ngã mạn và thân kiến luôn luôn tạo cho họ vô vàn nguy hại. Sự vĩ đại của họ đặt trên thân, trên dòng dõi, tên tuổi, chức phận, hoặc trên địa vị mà họ cho là quan trọng. Nhưng không bao giờ trí tuệ của họ được mở mang đủ rộng lớn để đem lại hạnh phúc và an lạc cho họ và cho người khác. Càng tệ hại hơn, họ không quan tâm đến, và quên hẳn trí tuệ. Vì vậy, có quá nhiều vấn đề khó khăn và phiền muộn ở khắp mọi nơi.
Đó là nỗi buồn vô hạn (Saṁvega) của Ngài trong đêm đó.
__________
4. Saṁvega – tạm dịch ở đây là “nỗi buồn vô hạn”, là một cảm xúc pha lẫn trạng thái bừng tỉnh, nhận thức sự cuồng si của mình và của người khác, là buông bỏ, không bám níu, là mệt mỏi nhàm chán hoàn cảnh hiện tại, đôi khi tiềm tàng một loại cảm xúc thương hại hay cảm xúc bi mẫn đối với kẻ khác. Saṁvega luôn luôn là dấu hiệu của sự phát triển trí tuệ ở mức độ cao hay thấp và rõ ràng không phải là kích thích hay thất vọng suông.
^^^
15. Vị tỳ khưu già hành thiền minh sát
Dưới chân núi dẫn đến cái động có nhiều sự kiện đó có một trung tâm gọi là “vipassanā” của một vị sư già ở đơn độc một mình. Đêm nọ, Ngài Phra Acharn muốn biết vị sư già đang làm gì. Ngài hướng tâm về với sư và biết ngay, lạ lùng thay, rằng vị tỳ khưu ấy đang bận rộn lo tính những công việc gia đình. Hầu như lúc nào sư cũng lo lắng những chuyện trong gia đình mà sư đã bỏ lại sau lưng! Cũng trong đêm ấy lúc về khuya, Ngài Acharn “nhìn lại” vị sư già và nhận thấy rằng sư vẫn còn âu lo và tính toán. Vào lúc rạng đông, lần thứ ba, Ngài thử đọc tâm của nhà sư. Kết quả vẫn y như vậy. Vị sư già hành vipassanā không thể ngưng lo lắng về những chuyện gia đình, sư không thể ngưng toan tính những gì sư phải làm và những gì sư không nên làm cho các con các cháu. Tất cả lo âu và toan tính ấy là phần việc của người tại gia cư sỹ, không có bất luận liên hệ nào với việc thực hành và phát triển vipassanā.
Buổi sáng, Ngài Acharn xuống động, vào làng trì bình. Trên đường về động, Ngài ghé lại thăm vị sư già. Trong câu chuyện, Ngài hỏi thoáng qua về tiến triển của dự tính xây cất nhà mới và về cách sắp xếp cho bà vợ cũ và các con trước kia của sư. “Sư có nhiều việc để toan tính và lo lắng quá,” Ngài nói “Sư không nghỉ ngơi gì được trong đêm qua.”
Ngạc nhiên, vị sư già hỏi với nụ cười ngượng nghịu, “Làm sao huynh biết tất cả như vậy?”
“Vấn đề không phải là làm sao tôi biết”, Ngài Acharn trả lời. “Chính huynh phải biết điều ấy rõ hơn tôi, bởi vì huynh là người đã lo lắng và tính toán cả đêm. Suốt đêm huynh không có nghỉ ngơi được chút nào.”
Nghe vậy vị sư già tái mặt, vừa hổ thẹn vừa kinh sợ. Sư ú ớ lầm bầm gì trong miệng và có vẻ như muốn xỉu. Nhận thấy rằng mình đã làm vị sư già sợ hãi quá nhiều, Ngài nói sang vấn đề khác và sớm từ giã sư, quay trở về động.
Ba ngày sau, một thiện tín đệ tử hầu cận của vị sư già lên thăm động. Ngài Acharn hỏi ông về vị sư già. Ông thiện tín nói rằng sư đã rời từ sáng ngày hôm qua. Ông nói, ông có hỏi sư tại sao đi, thì được sư nói rằng Ngài Acharn đã giảng cho sư nghe một thời Pháp nghiêm chỉnh làm cho sư gần xỉu. Hình như thời Pháp đã làm cho sư còn khổ tâm hơn là những lời khiển trách hay chỉ trích trực tiếp, bởi vì đó là loạt súng của Giáo Pháp, làm sư vô cùng hổ thẹn. Theo lời ông thiện tín, sư nói hình như Ngài Acharn biết hết những gì sư sâu ẩn suy tính trong tâm và như thế sư không thể ở lại đây lâu hơn nữa, làm gánh nặng cho Ngài.
Ông thiện tín nói rằng ông cố gắng khuyên lơn và thuyết phục sư đừng rời thiền viện. Ông nói với sư, nghĩ rằng sư sẽ làm gánh nặng cho Ngài Acharn thì không hợp lý. Gánh nặng, nếu có, thì nó là gánh nặng của chính sư mà thôi. Ông khuyên sư nên nhờ Ngài Acharn giải tỏa, dẹp gánh nặng ấy đi, có phải bao nhiêu lần tốt đẹp hơn là lẩn tránh, bỏ chạy để trốn nó. Dù vậy, vị sư già quá kinh hãi nhất quyết bỏ đi. Hỏi đi đâu, sư chỉ trả lời là sư sẽ đi xa. Bản thân sư cũng không biết sư sẽ chạy đi đâu. Một người con của ông thiện tín đưa sư đi một đoạn xa, nhưng cũng không biết sư đi đâu vì sư không nói gì.
Nghe kể lại câu chuyện, Ngài Acharn bồi hồi, lòng rất thương cho vị sư già. Biết ra thì những gì Ngài làm với ý tốt muốn giúp sư giờ đây đã đem lại hậu quả trái ngược. Vị sư già hoàn toàn hoảng hốt sợ hãi. Từ đó Ngài Acharn không bao giờ thử đọc lại tâm của sư, nghĩ rằng làm vậy có hại nhiều hơn lợi. Ngài kể qua cho ông thiện tín nghe một cách không trực tiếp những gì Ngài nói với vị sư già, và thêm rằng Ngài không nghĩ vị sư đó lại xem những lời ấy là quá nghiêm trọng. Cái được gọi là trung tâm thiền vipassanā giờ đây hoang vắng vì thế.
Tất cả những gì xảy ra liên quan đến vị sư già là một bài học cho Ngài Acharn về cách đối xử với những người đến gặp Ngài. Kể từ đó Ngài không bao giờ trực tiếp phê bình thẳng những suy nghĩ của người khác. Ngài đề cập đến, nhưng chỉ nói một cách xa gần cho đương sự hiểu Ngài muốn nói gì mà không chạm tự ái ai. Tâm của người bình thường không được rèn luyện, cũng giống như em bé mới tập đi. Dĩ nhiên nó phải ngả nghiêng qua lại. Người lớn chỉ có thể trông chừng, bảo vệ cho nó khỏi bị té đau mà không thể cấm nó lững thững, vấp váp. Cũng như vậy, không thể làm cho một cái tâm chưa từng được trau dồi khỏi phải xiêu vẹo ngả nghiêng theo những suy nghĩ và xúc cảm đột biến.
Trong khi lưu ngụ tại động này, Ngài còn nhận chân thêm những sự thật “mới”, từ bên trong và từ nguồn chân lý vô tận bên ngoài. Ngài phấn khởi và hưởng hỷ lạc trong pháp hành, không để ý đến thời gian trôi qua. Càng ngày càng có nhiều chân lý từ nội tâm bừng lên rọi sáng cho Ngài như một dòng suối cuồn cuộn tuôn trào trong mùa mưa. Vào những buổi chiều quang đãng, Ngài rảo bước dài theo đường mòn quanh co dưới những bóng cây, thưởng ngoạn cảnh vật và thọ hưởng trạng thái cô tịch trong khi trau dồi và phát triển tuệ minh sát. Ngài trở về động lúc hoàng hôn, giữa cảnh chim chóc nhộn nhịp về tổ và đủ loài muông thú không ai sợ ai, trên một vùng đất phì nhiêu. 46 Không khí an lành một cách kỳ diệu, mỗi chúng sanh ung dung tiến bước trên con đường của mình, lo chuyện của riêng mình, không ai có lý do gì để sợ lẫn nhau. Tất cả đều nhìn nhau với cặp mắt thân thiện quen thuộc, biết rằng chắc không ai muốn gây tổn hại cho ai.
Ngài Acharn nói rằng Ngài thích có chúng làm bạn, luôn luôn rải tâm từ đến tất cả. Tất cả đều chung nhau những nỗi thống khổ sanh, già, bệnh và chết, và như vậy Ngài nghĩ rằng không ai có lợi thế hơn ai về mặt này. Mức độ phát triển sự bình an trong nội tâm (pāramī) giữa loài thú và loài người có khác nhau. Tuy nhiên, sự khác biệt này đôi khi được thấy là xảy ra theo nghịch lý, có con thú còn hoàn thiện hơn một số người. Con người, vì đôi khi phải thọ nhận hậu quả của vài nghiệp xấu đã tạo trong quá khứ, tạm thời phải chịu khổ đau nên phải sanh vào cảnh thú. Thậm chí trong cảnh người, cũng có thể thấy song song những người sống trong cảnh khốn cùng (gần như không hơn cảnh thú mấy). Họ phải chịu khốn khổ trong những trạng thái ấy cho đến khi trả hết nghiệp xấu, hoặc đến khi hội đủ duyên cho nghiệp tốt trổ sanh, thay thế nghiệp xấu. Người Phật tử được khuyên dạy không nên khinh rẻ loài thú, bởi vì bên trong tất cả mọi chúng sanh đều có nghiệp xấu và nghiệp tốt pha trộn lẫn lộn, người cũng như thú (5).
Đến chiều tối, Ngài Acharn quét sạch phía trước động và tiếp tục nỗ lực tận diệt ô nhiễm, ngồi thiền rồi đi kinh hành, đi rồi ngồi, thiền tọa và thiền hành xen kẽ. Ngài vững chắc và bền bỉ trau dồi cả định và tuệ, quán chiếu các uẩn, phân tích, phân loại và tiêu hóa chúng trên nền tảng ba đặc tính của sự tồn tại (vô thường, khổ, vô ngã). Nhờ vậy tuệ giác của Ngài được trau dồi, giúp Ngài càng chắc chắn tiến đạt Mục tiêu Cuối cùng.
__________
(5). Theo Phật Giáo, chỉ khi nào chứng đắc Đạo Quả Nhập Lưu (Tu Đà Hườn, Sotāpanna) mới bảo đảm khỏi phải tái sinh vào cảnh thú. Đạo Quả Tu Đà Hườn như vậy, Đức Phật dạy là hơn chinh phục thế giới, còn hơn cảnh Trời, còn hơn chinh phục tất cả tam giới một cách không thể tả được.
^^^
16. Thời Pháp của chư vị đệ tử A La Hán
Vào lúc trời về đêm, thỉnh thoảng chư vị đệ tử A La Hán của Đức Phật đến giảng Giáo Pháp trong khi Ngài Acharn tọa thiền. Theo lời dạy của một vị A La Hán, khi đi kinh hành phải canh phòng nghiêm ngặt, thận trọng theo dõi thân cũng như tâm.
“Tâm chú niệm phải được đặt vững chắc trên đề mục đã chọn, dù đề mục hành thiền (kammaṭṭhāna) là một phần của thân hay bất luận uẩn nào trong ngũ uẩn. Không nên xao lãng. Xao lãng là có chao động, có lay chuyển. Niệm phải đến trước mọi cử động. Chớ nên cựa mình nhúc nhích như người đang ngủ, không có niệm canh phòng. Hàng ngày, khi đi ra ngoài để trì bình, khi độ thực, đi đại hoặc tiểu tiện, phải hành động như các bậc Thánh nhân, không như phàm nhân, những người chưa được rèn luyện đầy đủ. Luôn luôn sống theo cách của bậc sa môn (samaṇa) – trầm tĩnh, an lạc và vắng lặng. Trong mỗi tư thế của thân không được không phát triển niệm và tuệ, là điều giúp lật tẩy những ô nhiễm ẩn tàng. Trong khi độ thực, luôn luôn quán niệm bản chất (ô trược) của thức ăn. Không bao giờ để cho hương vị của vật thực trở thành độc dược đầu độc tâm mình. Cơ thể có thể được chất dinh dưỡng của vật thực bồi bổ sức khỏe sau khi ta nuốt vào mà không có quán niệm, nhưng trong lúc ấy tâm bị cướp đi phần tiến bộ bởi hương vị ngon ngọt ấy. Đó là cắt đứt tiến bộ của mình bằng cách nuôi dưỡng thân mà làm hại tâm. Tất cả những điều ấy xảy ra vì thiếu niệm.
“Bất luận nơi nào mà người tu ẩn dật đi đến hoặc lưu ngụ, vị ấy không nên tích trữ ô nhiễm tinh thần, vốn gây tổn hại cho mình, cũng không nên để ô nhiễm tinh thần của mình vượt sang đến, và làm tổn hại người khác.”
Trên phương diện thực hành của bậc thánh nhân, ô nhiễm được xem là những gì thật đánh kinh sợ. Như vậy, sư phải tự mình không ngừng đề cao cảnh giác, hay biết mỗi biểu hiện của luồng trôi chảy như một dòng suối của chúng, mỗi biểu hiện có năng lực tàn phá mạnh như nhau. Đi, đứng, nằm, ngồi, tiểu tiện hoặc đại tiện, hoặc khi nói, không bao giờ để thiếu niệm kiểm soát. Đó là con đường mà tất cả các vị Thánh nhân đều trải qua. Sống không chú niệm hay không tự kiểm soát là tạo môi trường cho ô nhiễm và tội lỗi phát sanh, là vướng mắc kẹt cứng trong vòng sanh tử, tử sanh. Những ai muốn phá vỡ vòng luân hồi để vượt thoát ra khỏi những kiếp sanh tồn triền miên đều phải lánh xa con đường đưa đến vực thẳm, con đường chỉ biến họ thành những tu sỹ xấu xa, không ai ưa thích. Thức ăn xấu không giúp được ai. Không ai muốn sống trong một căn nhà xấu. Không ai thích nhìn một bộ y xấu. Tất cả những gì xấu đều không ưa thích. Một tâm hồn xấu bị các bậc thanh cao đạo hạnh tránh xa. Tệ hại hơn nữa là nhà sư xấu, cả chư thiên và nhân loại đều nhờm gớm, ghê tởm. Do đó, tự kiểm soát là điều quan trọng, thiết yếu và phải có.
“Trong tất cả những sự nuôi dưỡng trên thế gian, dưỡng nuôi tâm là tối thượng. Tối thượng trong thế gian là tâm. Một cái tâm được dưỡng nuôi đầy đủ là tâm kiên cố vững chắc trong Giáo Pháp. Một cái tâm tự hiểu biết chính nó là tâm hiểu biết Giáo Pháp. Một cái tâm đạt đến được chính nó là tâm đã biết Giáo Pháp. Tâm của ta là một kho tàng vô giá. Chớ nên khinh thường nó! Người đánh mất cái tâm của mình là người không chăm sóc đầy đủ cái kho tàng vô giá của mình. Một ngàn lần sanh của người như vậy cũng chỉ là một ngàn lần mất mát. Đã biết rằng tâm là vô giá thì không nên làm mất nó khi vẫn biết vậy. Điều đó chỉ làm cho ta hối tiếc. Đã biết trước như vậy không được để cho điều ấy xẩy ra.
“Con người là một chúng sanh thông minh. Không nên để cho thấy là ta kém thông minh, vì thông minh là điều mà con người phải có. Như vậy thì quả thật là một tội ác thê thảm. Việc làm của người tu sỹ ẩn dật, cả bên trong lẫn bên ngoài, là làm việc mà cả thế gian có thể ngưỡng trông lên với sự tin tưởng. Cả việc cần phải làm và phương cách thực hiện việc làm ấy phải trong sạch và không khuyết điểm. Nó phải đứng đắn, thanh nhã, chân chính và phải được phát triển vững chắc, vì sự phát triển của chính mình. Một tu sỹ ẩn dật mà say mê trong việc trì giới, hành thiền chú niệm, trau dồi trí tuệ và nỗ lực tinh tấn thì chắc chắn sẽ trở nên một sa môn (samaṇa), theo ý nghĩa thật sự của từ này, ngay trong hiện tại hay trong một tương lai gần.
“Đó là Giáo Pháp của người tinh tấn, nhẫn nại và bền bỉ chịu đựng, quyết tâm chiến đấu để đạt đến Châu Toàn và Tuyệt Đỉnh. Đó là Giáo Pháp của người tuyệt đối giải thoát ra khỏi mọi đau khổ, không còn bị cột trói và bị bắt buộc phải làm gì. Đó là Giáo Pháp của Đức Phật, bậc hoàn toàn giải thoát và độc lập, Đấng Tôn Sư của toàn thể Tam Giới. Chứng ngộ ý nghĩa của Giáo Pháp này, sư sẽ sớm vượt thoát ra khỏi mọi ô nhiễm. Đây là bức thông điệp của Giáo Pháp để sư thận trọng suy ngẫm. Sư sẽ chứng nghiệm những gì nhiệm mầu huyền diệu của tâm mình. Chính tự bản chất của tâm đã là huyền diệu.”
Thời Pháp chấm dứt và vị A La Hán ra đi. Ngài Phra Acharn ôn lại những lời chỉ giáo, và thận trọng nghiền ngẫm suy tư từng chi tiết. Nhờ giáo huấn của mỗi vị A La Hán đã tơi thăm Ngài, càng ngày Ngài càng tiến triển và có thêm khả năng, ý chí càng tăng trưởng, niệm và tuệ càng kiên cố vững bền.
^^^
17. Chứng đắc Đạo Quả A Na Hàm
Ngài Phra Acharn nói rằng khi lắng nghe thời Pháp của vị A La Hán, Ngài tưởng chừng như đang nghe chính Đức Phật, mặc dù chưa bao giờ thấy Đức Phật. Ngài hoàn toàn say sưa tắm mình trong niềm hỷ lạc vô hạn. Thời gian hình như ngưng hẳn, và dường như chỉ có tâm được bao trùm trong vầng hào quang của Giáo Pháp. Chỉ đến khi xuất ra khỏi trạng thái thâm diệu này Ngài mới hay rằng mình vẫn còn mang cơ thể vật chất nặng tựa như một hòn núi. Sự cấu hợp của ngũ uẩn, mỗi uẩn tự chính nó là một khối đau khổ. Mỗi chuyến viếng thăm của các vị A La Hán và những lời chỉ dạy của các Ngài trong nhiều trường hợp khác nhau là những kinh nghiệm vàng ngọc, so với các diễn biến ở những nơi khác. Cũng trong động này Ngài tiến đạt đến Đạo Quả A Na Hàm.
Theo kinh điển, chúng ta được biết rằng với sự chứng đắc này, hành giả đã tháo gỡ năm trói buộc đầu tiên (saṁyojana): ảo kiến lầm lạc về ta hay bản ngã (sakkāyadiṭṭhi); hoài nghi hay lưỡng lự (vicikicchā); dính mắc trong niềm tin vào nghi thức lễ bái (silabbataparamasa); dục vọng (rāga); và sân hận (paṭigha). Người thành đạt Quả này không bao giờ còn tái sanh trở lại trong cảnh người, với thân tứ đại do đất, nước, gió, lửa cấu thành. Nếu Đạo Quả cuối cùng, A La Hán, chưa được thành tựu trong kiếp sống này, vị ấy sẽ tái sanh vào một trong năm cảnh giới Vô Thiên Phiên của chư vị Phạm Thiên, gọi là aviha (cảnh giới trường cửu), attapā (cảnh giới êm đềm tĩnh lặng), sudassā (cảnh giới đẹp đẽ), sudassi (cảnh giới quang đãng), và akanitthā (cảnh giới tối thượng). Những cảnh giới này chỉ khác nhau ở mức độ vi tế của mỗi cảnh.
Chính Ngài Acharn đã tiết lộ với các đệ tử thân tín rằng Ngài đã chứng đắc Đạo Quả A Na Hàm tại động này. Người viết quyết định ghi lại nơi đây và sẵn sàng tiếp nhận những lời phê bình của độc giả. Nếu tường thuật như trên có gì không đúng đắn, người viết xin nhận lãnh mọi khiển trách về điều thiếu sót này. Dù sao, ai cũng biết rằng Ngài Phra Acharn đã nỗ lực cố gắng để tận diệt ô nhiễm tại động này trong nhiều tháng. Ngài đã hành theo đường lối mà chư vị sa môn đã hành Giáo Pháp với tâm vắng lặng và mát mẻ.
^^^
18. Rời khỏi động Sarika
Ngài Acharn đã thâu hoạch nhiều kinh nghiệm quan trọng và bất ngờ trong lúc hành thiền, và những kinh nghiệm này lặp đi lặp lại trong nhiều đêm liên tiếp nên Ngài vững lòng tin. Vào một đêm nọ, Ngài cảm thấy tâm từ và tâm bi của mình đối với các huynh đệ tỳ khưu phát khởi mạnh mẽ lạ lùng. Đêm ấy, nỗ lực hành thiền của Ngài thâm sâu khác thường, và Ngài hiểu biết sáng tỏ thêm nhiều vấn đề - trong nội tâm cũng như ở ngoại cảnh. Điều này làm Ngài xúc động đến ứa nước mắt, hồi nhớ lại trước kia mình vô minh như thế nào, lợi ích của sự tinh tấn và công sức chiến đấu mà giờ đây mình đang gặt quả lớn lao làm sao, lòng bi mẫn vô biên của Đức Phật, băng rừng mở lối cho những ai bước theo dấu chân Ngài, và định luật nghiệp quả chi phối toàn thể loài người và loài thú vật vô cùng phức tạp. Tất cả những điều này được tóm lược trong câu kinh Pháp Cú: “Chúng sanh được sanh ra do nghiệp của mình và là chủ sở hữu của nghiệp của mình.” Ngài cũng tự giác cảnh cáo rằng dù đã thâu gặt thành quả có nhiều khía cạnh kỳ diệu, sự chấm dứt đau khổ cuối cùng vẫn chưa được thành tựu. Cần thêm sức mạnh, tinh tấn và mức độ “niệm và tuệ” cao hơn, kết hợp với lòng kiên trì nhiệt thành thì mới thành đạt mục tiêu cứu cánh.
Ngài cũng được thêm phần thoải mái vì chứng bệnh đau bao tử kinh niên đã từ lâu làm khó chịu, nay đã được chữa trị nhờ phương pháp trị liệu của Giáo Pháp. Kể từ đây, tâm của Ngài đã được kiên cố vững chắc và mặc dù chưa trọn vẹn tận diệt tất cả ô nhiễm, Ngài không còn hoài nghi nào về pháp hành, vốn tiến bộ đều đặn và không còn thay đổi lên xuống như trước. Ngài đã tuyệt đối vững lòng rằng trong pháp hành của mình không còn gì để suy đoán hay mò mẫm như đi trong đêm tối, và sự Chấm Dứt Đau Khổ Tuyệt Đối không còn bao xa nữa. Trong thời gian này niệm và tuệ của Ngài lớn mạnh bền vững và chắc chắn, không cần phải tiếp sức hay cưỡng bách. Một luồng kiến thức về những vấn đề bên trong và bên ngoài đều đặn trôi chảy như một dòng suối ngang qua tâm nhãn, làm cho Ngài càng thêm hỷ lạc trong Giáo Pháp. Ngay vào lúc ấy, Ngài phát tâm từ bi với các tỳ khưu đệ tử và ước muốn những vị này cũng chia sẻ thành quả chứng nghiệm với Ngài. Lòng từ mẫn ấy thúc đẩy Ngài rời động Sarika để sang các tỉnh miền Đông Bắc, mặc dù ở đây Ngài đang sống rất thoải mái và an lành.
Vài ngày trước khi Ngài lên đường, một số chư thiên trên quả địa cầu, do vị lãnh đạo vừa quy y với Ngài vài tháng trước hướng dẫn, đến thăm và xin nghe lời Ngài chỉ giáo. Sau khi khuyên dạy họ xong, Ngài cho biết là sẽ rời nơi này trong vài ngày. Chư thiên đồng thanh tỏ ý không bằng lòng và yêu cầu Ngài tiếp tục lưu lại vì phúc lợi và sự thịnh vượng của họ. Ngài Acharn nói rằng Ngài phải ra đi vì tinh thần trách nhiệm. Ngài khuyên họ không nên quá đỗi âu sầu, và rằng nếu có thể và hoàn cảnh cho phép, Ngài sẽ trở lại. Chư thiên không thể cầm lòng sầu muộn vì họ rất thành tâm tôn kính, mến yêu và sùng bái Ngài.
^^^
19. Tại Bangkok với Ngài Chao Khun Upali
Trước ngày lên đường, Ngài Acharn Mun nghĩ đến vị cao tăng lỗi lạc của chùa Wat Boromnivas, ở Bangkok, Ngài Upāli Gunūpamācāriya, và muốn biết lúc này Ngài Upāli đang làm gì. Ngài hướng ánh sáng nội tâm về bắt nhịp hòa hợp với tâm Ngài Upāli, và tức khắc biết rằng Ngài Upāli đang suy ngẫm về pháp Thập Nhị Nhân Duyên (Paṭicca Samuppāda, định luật Tùy thuộc Phát sanh). Ngài ghi lại ngày giờ và sau đó, khi về đến Bangkok, kiểm nhận lại với Ngài Upāli để xem có đúng không. Vị cao tăng Upāli xác nhận là đúng, và rất vui mừng nói, “Sư quả thật là rất sáng suốt! Tôi là thầy nhưng không bì kịp với Sư. Chính Sư làm cho tôi hổ thẹn.” Rồi Ngài thêm, “Đây là điều mà mình phải trông chờ nơi một đệ tử của Đức Phật. Chúng ta không nên tự mãn nguyện, nghĩ rằng mình đã bước theo dấu chân của Đức Phật và bấy nhiêu là đủ. Phải có những vị để cho kẻ khác nhìn lên, xem đó là biểu tượng của sự kết tinh của Giáo Pháp. Điều này chứng minh chân lý nói rằng Giáo Pháp phi thời gian, không bị thời gian và nơi chốn giới hạn, mà chỉ bị chính sự lười biếng của con người giới hạn. Cũng bởi sự lười biếng của con người mà Giáo Pháp của Đức Phật sẽ mất đi trong thế gian. Thật là đáng khích lệ là Ngài Acharn Mun đã tự mình làm một tấm gương như vậy.”
Ngài Upāli thường khen ngợi và tán dương Ngài Acharn Mun. Khi không giải quyết được vấn đề gì đó, vị cao tăng Upāli lại cử người đi tìm Ngài Acharn để hỏi xin ý kiến.
Sau một thời gian, Ngài Acharn Mun rời Bangkok đi các tỉnh miền Đông Bắc.
^^^
20. Phra Acharn Sitha mạo hiểm với cọp
Ngài Acharn Mun thường thuật cho các đệ tử nghe những mẩu chuyện mạo hiểm của Ngài với cọp. Lần nọ, khi Ngài lưu ngụ ở một nơi hẻo lánh gần vùng núi trong vương quốc Lào, có một con cọp to lớn thích đến cách Ngài một khoảng xa xa, tò mò xem Ngài đi kinh hành vào lúc ban đêm. Cọp không bao giờ tỏ thái độ đe dọa mà chỉ quanh quẩn bên cạnh, thỉnh thoảng gầm to lên khi thích gầm thôi. Từ lâu Ngài đã quen sống với thú rừng nên không quan tâm đến việc này.
Đêm nọ, một con cọp thật to đến thăm vị tỳ khưu dhūtaṅga cùng đi chung với Ngài, nhưng vị này ngụ trong làng khác, cách đó một đoạn xa. Tên vị này là Sitha. Đêm ấy tỳ khưu Sitha đang bận đi kinh hành, đường kinh hành có hai cây đèn cầy để trong lồng đèn, mỗi đầu một ngọn. Cọp ngồi cách xa đó chừng vài thước, và dường như cũng đã khá lâu rồi. Nó ngồi giống hệt như một con chó nuôi trong nhà, xoay mặt hướng về nhà sư, và lặng lẽ nhìn sư đi tới đi lui thiền hành. Nó không làm gì khác mà chỉ ngồi nhìn. Một lúc sau, Ngài Acharn Sitha đến gần nơi nó đang ngồi và cảm thấy như có vật gì lạ, có lẽ chỉ thấy thoáng qua ở khóe mắt. Ngài quay nhìn sang và thấy con “chó giữ nhà” của mình ngồi đó không nhúc nhích. Nó giống như một con thú nhồi bông để bầy chơi, hơn là con vật sống. Acharn Sitha không thấy sợ, mà cũng không thấy cọp có vẻ gì muốn làm hại mình.
Sư bình thản tiếp tục thời thiền hành như không có gì xảy ra, nhưng một thời gian khá lâu sau sư bắt đầu cảm thấy thương hại cọp, nghĩ rằng nó đang phí thì giờ, chỉ ngồi nhìn sư. Phải chi trong khi đó nó đi tìm thức ăn thì tốt hơn. Sư vừa nghĩ đến đó thì cọp gầm lên một tiếng rống chát tai, vang rầm cả khắp vùng. Thấy cọp phản ứng như vậy Acharn Sitha vội vã thay đổi ý nghĩ. Bằng tâm, sư nói với cọp rằng sở dĩ sư nghĩ như vậy là vì thương hại cọp, dù sao cọp cũng phải đi tìm thức ăn để sống. Tuy nhiên, nếu cọp cảm thấy hoan hỷ và thỏa thích làm công việc trông chừng cho sư thì càng tốt. Chừng đó cọp không phản ứng gì và tiếp tục ngồi nhìn sư đi tới đi lui kinh hành, không quan tâm gì đến nó. Cọp tiếp tục ngồi đó như con chó nhà ngồi trông cho chủ, thản nhiên và bất động.
Một lúc sau, Acharn Sitha chấm dứt thời thiền hành và rời đường kinh hành về chỗ nghỉ ngơi gần đó. Chỗ nghỉ của sư chỉ là một cái chõng tre. Nơi đây sư bắt đầu đọc kinh rồi ngồi thiền, trước khi đi ngủ. Sư thức giấc lúc ba giờ sáng và thiền hành trở lại, nhưng giờ đây không còn thấy cọp ở đâu. Sư không biết nó đi đâu hay đi lúc nào, mà cũng không thấy nó trở lại trong những đêm sau đó.
Về sau, sư thuật lại cho Ngài Acharn Mun nghe diễn biến lạ lùng này và nói rằng tiếng gầm của cọp lúc ấy làm sư dựng cả tóc gáy, đầu thấy tê cứng, dường như bị dồn trong một cái mũ quá nhỏ. Sư nói không biết ngay lúc bấy giờ có sợ hãi không, nhưng sâu ẩn trong tâm thì có thể là có. Sau đó một lúc, sư cảm thấy bình thường và tiếp tục thời thiền hành một cách bình thản. Trong những đêm kế, sư vẫn còn nghe tiếng cọp gầm rống đâu gần đó, nhưng không thấy lai vãng. Ngài Acharn Sitha không hề quan tâm đến tiếng rống và hoàn toàn thản nhiên gia công chuyên cần hành đạo.
Acharn Sitha đồng tu hạnh đầu đà trong rừng với Acharn Mun cùng một thời kỳ, nhưng cao tuổi hơn đôi chút. Ngài chỉ thích sống ẩn dật đơn độc. Ngài là một trong những vị tỳ khưu có tác phong trang nghiêm và đã kiên cố vững chắc trên Con Đường chân chính (Chánh Đạo). Ngài thích sống trong những vùng rừng núi của vương quốc Lào hơn là ở Thái Lan. Ngài chỉ ở Thái trong một thời gian ngắn.
Vào những giai đoạn sơ khởi trên bước đường du phương, Ngài Acharn Mun đi đó đây hành hạnh đầu đà, xuyên qua các tỉnh thành Nakhorn Phanom, Sakoi Nakhorn, và Udorn Thani sang qua Miến Điện, rồi trở về Thái qua Chiengmai trên miền Bắc. Kế đó, Ngài sang Lào, đến Luang Prabang và Vientiane, và trở lại thành phố Loey của Thái Lan, nơi đây Ngài nhập hạ trong làng Bahn Khok, gần động Phāpū. Mùa nhập hạ năm sau Ngài cũng trải qua tại thị trấn ấy, nhưng ở động Phā Bueng. Tất cả những nơi ấy là rừng rậm núi cao, đầy thú đủ loại. Đây là nhưng vùng thưa thớt dân cư đến độ lắm khi Ngài đi suốt cả ngày mà không gặp làng mạc. Người mà lạc lối trong một địa thế hoang vu và hiểm trở như thế chắc chắn là thật sự nguy khốn, vì phải ở lại đêm giữa những loài thú dữ. Kế đó Ngài xuống Bangkok, nhập hạ tại Wat Pathumvan.
Chính sau thời gian đó, Ngài mới lên vùng Khao Yai (Núi Lớn) và cư ngụ tại động Sarika. Trong cuộc du phương vùng Đông Bắc, Ngài chỉ đi một mình, ngoại trừ một vài lúc ngắn ngủi, có đệ tử đi theo.
Phương cách thực hành của Ngài là khắc khổ và cương quyết, không có chiều hướng phải hợp đoàn với người khác. Luôn luôn Ngài giữ thói quen dù ở đâu, đi đâu, và bất luận nơi nào, cũng đơn độc một mình. Chỉ đến lúc hoàn toàn tin chắc vào năng lực của nội tâm mình Ngài mới mở lòng từ mẫn dìu dắt khuyến dạy các vị tỳ khưu khác. Cũng vì lý do ấy mà Ngài rời bỏ cuộc sống tiện nghi ở động Sarika, đi trở lại vùng Đông Bắc. Nơi đây, Ngài có một nhóm đệ tử tỳ khưu và sāmaṇera đã được huấn luyện trong những năm Ngài mới bắt đầu hành hạnh đầu đà. Khi Ngài trở lại đó thì tất cả các vị này sẵn sàng đón mừng và chăm sóc Ngài như sư phụ của họ.
^^^
21. Vài vị đệ tử của Ngài Acharn Mun
Có một số rất đông các vị đệ tử theo học với Ngài, cả tỳ khưu, sāmaṇera, thiện nam và tín nữ. Tất cả những vị này đều tận tâm nhiệt thành với Giáo Pháp và sẵn sàng dấn thân vào lối tu nghiêm khắc và cương quyết, vốn là điểm nổi bật của phương pháp mà Ngài dạy. Có những vị mà trước kia đã được kính nể như Acharn (thầy), mặc dù tuổi cao và địa vị quan trọng ngoài đời, sẵn sàng từ bỏ chức tước, đẳng cấp và những hoạt động xã hội, đặt mình dưới sự giảng dạy và nỗ lực rèn luyện của Ngài. Về sau, một số khá đông các vị này kiên cố vững chắc trong phương pháp thực hành và trong những thành quả nhằm khai triển nội tâm của phương pháp này, đã có đủ khả năng và tư cách để dạy người khác.
Những vị trong nhóm đệ tử đầu tiên xứng đáng được nêu ra đây là Ngài Acharn Suwan, trước kia trụ trì Wat Aranyikhavas trong tỉnh lỵ Nong Khai, Ngài Phra Acharn Singh Khantyāgamo, trước kia trụ trì Wat Sālawan trong tỉnh lỵ Nakhon Rājasimā và Ngài Phra Acharn Mahā Pin Paññābalo, trước kia trụ trì Wat Saddhārāma trong tỉnh lỵ Nakhon Rājasimā. Cả ba vị đều là người tỉnh Ubol Rajathani, và cả ba đều đã viên tịch. Phra Acharn Singh và Phra Acharn Pin là hai anh em và cả hai đều có học vấn cao. Hai anh em rất cảm phục lối giảng dạy và thực hành của Ngài Acharn Mun nên từ bỏ mọi hãnh diện, mọi tham vọng, quyền uy, chức tước và trách nhiệm ngoài đời, tự đặt mình dưới sự hướng dẫn của Ngài. Về sau hai vị này giúp Ngài rất nhiều trong việc đào luyện đệ tử.
Ba vị Acharn kể trên là đệ tử nòng cốt rất quan trọng trong nhiệm vụ tiếp nối Ngài Acharn Mun để giảng dạy và rèn luyện người khác, chư vị tỳ khưu cũng như hàng ngũ tại gia cư sỹ. Một số đệ tử của ba vị này hiện vẫn còn sống.
Kế đó là Ngài Phra Acharn Tet Desaraṅsi, với cấp bậc Phra Nirodharaṅsi trong hàng giáo phẩm. Hiện nay Ngài cư ngụ tại Wat Hin Mark Peng trong tỉnh Nong Khai. Ngài là một trong những vị đệ tử lão thành của Ngài Acharn Mun. Giới hạnh nghiêm túc và tác phong trang nhã của Ngài được cả miền trong xứ kính mộ. Phương pháp thực hành của Ngài trơn tru và đều đặn, tính tình hiền hòa, từ tốn, lời nói dịu ngọt, và dáng điệu thanh nhã. Những tâm tính nổi bật như vậy làm cho Ngài được các đệ tử quý mến và những người đệ tử này, thực học những tư cách dễ mến của Ngài, sẽ cũng được người sống xung quanh quý mến.
Nên ghi nhận rằng những tính cách nổi bật và tác phong đặc thù của mỗi vị Acharn không thể trông chờ sẽ có ở một vị khác. Một vài tính cách và tác phong của một vị Acharn vị khác có thể học tập được và làm cho mọi người liên hệ cảm thấy thoải mái dễ chịu, nhưng có những tính cách chỉ duy nhất có ở một vị Acharn, và nếu có ai cố bắt chước làm theo thì chỉ gây khó chịu và ác cảm với người xung quanh.
Bẩm tính tự nhiên của Ngài Acharn Tet thuộc về nhóm đầu, lúc nào cũng dịu hiền và dễ mến đối với mọi người. Đây cũng là tính tình rất thích hợp với địa vị một nhà sư, phải là gương sáng của mẫu người trầm tĩnh và dịu hiền. Đến nay người viết vẫn tôn trọng Ngài là bậc Acharn (thầy). Ngài có một số đông đệ tử và ban bố rất nhiều lợi ích cho rất nhiều người. Cuộc đời của Ngài là một gương lành, lỗi lạc và mẫu mực.
Phra Acharn Fahn Ᾱcāro là vị đệ tử có hạ kế đó. Hiện nay Ngài cư ngụ tại Wat Udomsomphorn, trong làng Bahn Na Hua Chang, tỉnh Sakol Nakhon. Cũng như Ngài Phra Acharn Tet, Ngài được nhiều người biết đến là đã kiên cố vững chắc trên Đạo Lộ và trong Pháp Hành chân chính. Ngài cũng được quý trọng cùng khắp các miền trong xứ. Lòng từ bi của Ngài quả thật rất cảm kích và vô lượng vô biên, giúp đỡ người khác trong cả lãnh vực vật chất và tinh thần.
Phra Acharn Khao là một Tăng Bảo khác phải được ghi nhận nơi đây. Ngài cư ngụ tại Wat Tham Klong Phane trong tỉnh Udorn Thani. Ngài cũng nổi tiếng về lối thực hành và về tuệ giác đã liễu chứng. Lúc nào cũng thích sống ẩn dật, là gương mẫu của lối tu khắc khổ và cương quyết, Ngài được xem là đứng hàng đầu trong những vị cố gắng hành hạnh đầu đà. Hiện nay Ngài đã tám mươi hai tuổi nhưng vẫn không tự cho phép mình dể duôi, kém tinh tấn. Có những người lo ngại cho sức khỏe của Ngài và thắc mắc tại sao đã tiến đạt đến mức không còn gì nữa phải chiến đấu để thành tựu mà Ngài vẫn tiếp tục cố gắng như vậy. Để giải đáp những thắc mắc trên Ngài nói rằng: “Đối với người không còn bị bạo quân áp chế hay thống trị thì không còn dể duôi hay lười biếng. Không phải như những người khác, quý vị ấy không biến một tổ mối thành một hòn núi khi phải gặp khó khăn. Chính cái khuynh hướng rúm ró trước khó khăn, thật sự hay tưởng tượng – dù nhỏ như tổ mối mà xem là to như hòn núi – chính khuynh hướng ấy làm cho ta thất bại và khuất phục, chịu thua một cách nhục nhã, không có gì làm cho mình hãnh diện khi nhìn lại phía sau. Chỉ có tình trạng nghèo nàn và phiền muộn tràn ngập do lo âu và lười biếng làm trầm trọng thêm. Đối với những vị đã loại trừ được bạo quân ra khỏi tâm mình thì không còn thái quá bệnh hoạn như vậy. Tâm của các Ngài chỉ thuần túy là Giáo Pháp và lúc nào cũng trang nghiêm và châu toàn. Quả thật là gương mẫu cho tất cả.”
Trên đây chỉ là một vài vị trong nhóm đệ tử của Ngài Acharn Mun, mỗi vị là một Tăng Bảo sáng chói, lúc nào cũng là ánh đạo phong phú dồi dào, là niềm vui cho những ai hiểu các Ngài. Có những vị khác chứng đắc được ít hơn. Tất cả các đệ tử ấy, tăng chúng cũng như tại gia cư sỹ, là thành quả của công trình giảng dạy và huấn luyện của Ngài trên bước đường du phương hành hạnh đầu đà. Điềm mộng tiên tri của Ngài Acharn Mun đã thành sự thật. Phương cách giáo huấn và đường lối thực hành của Ngài làm cho rất nhiều người vô cùng cảm kích và hoan hỷ. Ngài dạy những gì chính Ngài đã chứng ngộ, không phải là những gì Ngài suy đoán. Những gì Ngài nói, Ngài đã “biết.” Điều gì Ngài dạy người khác làm, chính Ngài đã làm. Như vậy, Ngài đã thành tựu ước vọng dưỡng nuôi từ khi còn ở động Sarika: dạy dỗ và huấn luyện các đệ tử cũ và những người mới.
^^^
22. Hạnh đầu đà
Sau đây là những hạnh đầu đà khác nhau mà Ngài Acharn Mun khuyên dạy các đệ tử nên hành:
1. Đi trì bình khất thực (pindapāto).
Đây là nhiệm vụ cần thiết mà một vị tỳ khưu hoặc sāmaṇera hành hạnh đầu đà không thể thiếu sót, ngoại trừ những ngày họ quyết định nhịn đói. Trên đường, từ chỗ ở đến xóm làng và từ làng trở về, phải liên tục giác tỉnh chú niệm, không ngừng tự kiểm soát. Đây là thực hành chú niệm trong lúc gia công làm phận sự, luôn luôn hay biết mình đang làm gì. Không để tâm sa ngã theo ảnh hưởng nguy hại của những quyến rũ (dĩ nhiên là có rất nhiều trong làng: phụ nữ hay thiếu nữ ăn mặc không kín đáo). Những cám dỗ ấy có thể lén lút nhập vào mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý của vị tỳ khưu. Vì lẽ ấy, vị tỳ khưu đi trì bình phải hết sức thận trọng mỗi khi 57 vào làng hoặc trở về, phải chú tâm theo dõi và kiểm soát mỗi hành động, mỗi cử chỉ của mình. Trong thực tế, đây là một cách tinh tấn.
2. Không thọ nhận vật thực dâng cúng trễ.
Vật thực nào được sớt vào bát, dù ít hay nhiều, cũng là thích hợp với người tự rèn luyện mình đức tự hài lòng. Không cần phải thọ nhận thêm vật thực được dâng cúng trễ, tức là sau khi đi bát từ làng về. Thọ nhận thức ăn này là tự bó tay đầu hàng tính lợi dưỡng, một thói quen xấu càng lúc càng khó chế ngự. Biết thấy đủ với bất cứ vật thực nào được sớt vào bát là mục đích của pháp hành này, trong khi tham muốn thêm là đặc tính của hạng ngạ quỷ, vốn bị tật xấu thèm khát vô độ của chính mình thiêu đốt và làm hao mòn, chỉ chiến đấu để dồn thức ăn vào miệng, dù tâm bị tổn hại. Giới này trong hạnh đầu đà có tác dụng đè nén lòng thèm khát vật thực và cũng rèn luyện tâm biết đủ đối với vật thực.
3. Chỉ Độ thực một lần mỗi ngày.
Đây là giới hạnh thích hợp nhất cho vị tỳ khưu hành đầu đà, đặt nặng nỗ lực vào việc trau dồi tâm và phải bỏ xuống gánh nặng vật thực càng nhiều càng tốt. Giới này đương nhiên giúp cho vị tỳ khưu dứt bỏ lòng mong muốn có thêm thức ăn ngon, chỉ nuôi dưỡng thân, làm cho cơ thể dễ chịu trong khi gây tổn hại cho phẩm hạnh của người mong cầu Chấm dứt Đau khổ. Đôi khi cũng cần giảm bớt vật thực của bữa ăn một lần trong ngày đó để tránh ăn quá no làm buồn ngủ và dã dượi. Sự bớt ăn này là một phước lành cho người hành thông thường và có nhiều lợi ích cho người cần tu tập theo cách này. Đây là một phương pháp khác để tiêu trừ lòng thèm khát vật thực, vốn làm mất phẩm giá vị tỳ khưu hành hạnh đầu đà.
Ngoài đời có nhiều phương cách để loại trừ một năng lực đối nghịch hay một sức mạnh gây tổn hại, dù đó là một con chó, một con rắn, một con cọp, một con voi, một chứng bệnh hay một con người cũng vậy. Trong Phật giáo cũng có những phương pháp để vị tỳ kheo hành hạnh đầu đà bị sự thèm khát vật thực ám ảnh sử dụng. Tuân thủ giới này là một cách để chống lại sức mạnh đối nghịch như vậy.
4. Độ thực trong bát.
Việc này thích hợp nhất với vị tỳ khưu hành hạnh đầu đà luôn luôn di chuyển, bất luận ở đâu cũng chỉ là tạm thời. Nó làm vơi bớt gánh nặng phải mang theo những đồ dùng kềnh càng và phiền phức, nặng nhọc cho cả thân lẫn tâm. Một lợi ích khác của pháp hành này là việc trộn chung các thức ăn trong bát có tác dụng tăng cường chú niệm và trí tuệ trong khi quán tưởng đến bản chất của vật thực (sự gớm guốc của nó) và mục đích của việc ăn.
Theo Ngài Phra Acharn Mun, pháp quán niệm vật thực và việc thực hành hạnh đầu đà này và các hạnh khác giúp hành giả vững vàng đi sâu vào sự thật. Vì lẽ ấy, Ngài lúc nào cũng hành trì rất nghiêm túc. Dùng vật thực để chung trong bát là phương cách kìm hãm lòng ham muốn buông lung chiều theo cái miệng. Trong khi ăn, tâm quán niệm hướng về bản chất của thức ăn (sự gớm guốc của nó) và lý do tại sao ăn, chỉ để nuôi dưỡng sự sống chứ không phải bị lệ thuộc trong những yêu thích hay ghét bỏ, dù thức ăn có ngon miệng hay không. Pháp quán niệm này giúp giữ tâm quân bình, dù vật thực ngon dở thế nào.
5. Đắp y bằng vải lượm từ đống rác.
Ngài Phra Acharn Mun luôn luôn tự ép mình không được thỏa thích trong những gì làm đẹp mắt nên lúc nào cũng nghiêm túc trong sạch thực hành giới này. Ngài lượm nhặt những mảnh vải mà người ta bỏ ở những nơi như nghĩa địa rồi may ráp lại thành tấm y hay một miếng vải lớn dùng vào việc khác. Đôi khi Ngài “kéo cái y ra” (6) từ một tử thi trong nghĩa địa khi ấy đã được chủ nhân của xác chết hứa dâng cho Ngài. Trong khi đi trì bình, từ chỗ ở vào làng hay từ làng trở về, Ngài thường lượm nhặt những mảnh vải rách bỏ rơi bên đường, dù vải đó là vải gì. Đem về, Ngài giặt sạch rồi dùng để vá y hoặc làm gì khác. Khi các thiện tín thí chủ biết được lối hành đầu đà này thì dâng y đến ngài bằng cách đem bỏ ở nghĩa địa nằm bên đường mà Ngài thường đi trì bình hoặc trong khu vực Ngài cư ngụ. Về sau Ngài thay đổi đôi chút pháp hành này để thích hợp với hoàn cảnh và tự cho phép “kéo cái y ra” ở nhiều địa điểm khác nhau. Ngài giữ hạnh này cho đến tận ngày viên tịch.
Ngài Acharn Mun thường nói rằng vị tỳ khưu muốn tĩnh lặng cho nội tâm phải tự xem mình như mảnh vải rách vô dụng (trong mắt người thế gian). Với thái độ, tinh thần như vậy, vị ấy không bị phiền nhiễu bởi những vấn đề ăn uống, ngủ nghỉ và sống chung với người khác. Vị ấy không kiêu căng, ngã mạn với lòng tự phụ hay tự cao, tự đại, hiểu rằng những gì nâng cao phẩm giá vị tỳ khưu ẩn dật là khả năng làm xẹp cái tự ngã của mình, không phải khả năng tự thổi phồng. Đó là giới luật, hoặc hơn thế nữa, là sự trưởng thành, sự thuần thục mà người tu ẩn dật được trông đợi phải đạt đến. Hành giả phải để mắt trông chừng, không cho tính tự cao xâm nhập vào lãnh địa của Giáo Pháp, nếu không vị ấy sẽ suy sụp và trở thành giống cầm thú hơn loài người. Để thuần hóa khái niệm “tự ngã”, xem nó chỉ như những miếng giẻ rách và không để cho nó thò cái đầu tự phụ lên là tiêu chuẩn đo lường sự tiến bộ trong Giáo Pháp. Như quả địa cầu mênh mông rộng lớn, một cái tâm như thế không hề lay chuyển và không bị hoàn cảnh làm chao động. Đã được thanh lọc trong sạch tất cả mọi hình thái và mọi mức độ của tự cao và tự đại, một cái tâm như thế có đủ khả năng giữ quân bình trong mọi trường hợp. Thực hành hạnh đầu đà đắp y bằng vải lượm từ đống rác là phương tiện nhằm giảm bớt và tiêu trừ khái niệm về “tự ngã.”
6. Sống trong rừng núi hoang vu.
Từ những ngày đầu tiên tu tập, Ngài Acharn đã nhận thức được lợi ích lớn lao của việc sống trong núi rừng hoang vu mà nhờ đó Ngài đã được hưởng sự cô tịch an bình. Cảnh vật xung quanh khơi động trạng thái giác tỉnh chú niệm. Trong khi đi, đứng, ngồi hay nằm, chú niệm luôn luôn hiện hữu với trí tuệ để suy ngẫm về Pháp, trong nội tâm cũng như ở ngoại cảnh, và liên tục không gián đoạn, ngoại trừ lúc ngủ. Trong mỗi oai nghi, hành giả đều cảm thấy nhẹ nhàng và thoải mái. Không bị ràng buộc hay lôi cuốn đè nặng trong tâm, viễn ảnh Giải thoát ngày càng sáng tỏ. Càng đơn độc và xa cách những nơi dân cư đông đúc, càng sống giữa những nơi mà thú rừng qua lại tự do, tâm càng được chuẩn bị để triển khai khả năng vượt lên khỏi vực thẳm của ô nhiễm, lúc nào cũng như chim trời, sẵn sàng cất cánh tung bay. Ô nhiễm vẫn còn đó, tiềm tàng sâu thẳm trong tâm, nhưng giữa môi trường như vậy, năng lực của tâm tăng trưởng mạnh mẽ và như thể đã diệt trừ được hàng trăm ô nhiễm, chỉ còn lại đôi chút. Đó là lợi ích của hoàn cảnh thuận lợi lúc nào cũng khuyến khích hành giả.
Ý nghĩ đối với loài thú được dựa trên nền tảng từ bi nhiều hơn là sợ sệt. Giống loài người, chúng cũng chia sẻ hoàn cảnh khổ đau của sanh, già, bệnh, chết, nhưng khác người ở chỗ chúng không có khả năng hiểu biết điều nào là thiện, điều nào bất thiện, cái gì là phước báu, cái gì là tội khổ. Vậy người mà không phân biệt điều phải lẽ quấy thì không có gì hơn loài thú. Từ “thú” do loài người đặt ra một cách độc đoán. Không biết “loài thú” đặt tên gì để gọi con người. Nếu có, chưa chừng chúng gọi ta là “quỷ sứ”, hay “yêu tinh” để mô tả đúng hành động thông thường của con người, giết chóc bừa bãi để ăn thịt cũng như để giải trí. Trong thực tế, nếu chúng gọi ta là như vậy thì phần lớn là đúng và hợp lý, không có gì quá đáng, bởi vì có nhiều chúng sanh tự gọi mình là “người” mà không dung tha cả thú lẫn người, thường dùng những phương tiện hung bạo và giết chóc để nuôi dưỡng ngọn lửa hiểm nguy và kinh sợ trong xã hội loài người cũng như xã hội loài thú. Vì lẽ ấy, loài thú tự nhiên nghi kỵ con người.
Hình như có một liên hệ thân hữu giữa vị tỳ khưu hành hạnh đầu đà với loài thú, kể cả những con thú hung bạo mà thông thường là đáng kinh sợ và tránh xa. Theo Ngài Acharn, có một lần nọ, trong khi Ngài đang thiền hành thì gặp một con heo rừng tình cờ đi ngang qua. Thay vì kinh sợ bỏ chạy, heo rừng không mấy lưu tâm đến Ngài và vẫn tiếp tục đi một cách thản nhiên. Có lẽ nó đã hiểu rằng dù sao Ngài Acharn không phải yêu tinh.
Nơi đây, người viết cũng muốn thuật lại một chuyện tương tự xảy ra tại Thiền viện Bahn Tard trong buổi ban sơ, khi khu này vừa được khai quang để làm nơi cư ngụ cho Chư Tăng.
Lúc bấy giờ đã có nhiều tỳ khưu và sāmaṇera ở tại khu rừng này, nhưng một bầy heo rừng vẫn thường lẩn quẩn tới lui quanh tịnh thất của các sư, lắm khi thản nhiên ngủ ngay trước đó. Chúng không sợ mà cứ lai vãng cách đường kinh hành chừng vài thước, gần đến độ nghe được tiếng chúng ủi đất. Lúc ban đầu, vài vị tỳ khưu không biết phải làm sao, kêu các vị khác đến để tận mắt xem, nhưng rồi bầy heo rừng vẫn không động đậy. Chẳng bao lâu sau, người và heo không ai để ý đến ai nữa, ai nấy cùng chung sống an lành, thoải mái.
Ngày nay, có rất ít thấy những chuyện tương tự vì nhiều “yêu tinh” ngang nhiên vi phạm định luật “sống và để cho người khác sống” và đã giết hại heo rừng mỗi khi gặp (có lẽ khi các nhà sư tạm thời vắng mặt, hoặc khi heo rừng đi lạc vào xóm làng lân cận), và trong một thời gian ngắn, không còn thấy chúng đâu nữa. Điều này xác nhận rằng loài thú thích tìm chỗ ẩn náu nơi có Chư Tăng ở, kể cả ở thành thị. Những con chó chẳng hạn, thường có hàng trăm con trong các tự viện. Hình như chúng biết rằng, ở đó sẽ không bị tổn hại (ít ra là các sư không làm gì hại chúng, mặc dù đôi khi vài chú thanh niên trong chùa cũng nóng nảy trút cơn giận vào chúng). Điều này cũng chứng tỏ rằng Giáo Pháp luôn mang lại tình trạng an lành và bất bạo động cho tất cả, thú cũng như người.
Theo Ngài Acharn, sống trong rừng có vô số cơ hội để quán niệm về những cảnh vật bên ngoài cũng như những chuyển biến bên trong. Tâm luôn luôn xuôi chiều hướng về Giải Thoát và lúc nào cũng kiên trì gia công tiến đạt Mục tiêu ấy. Đây là chiến trường đối với người có nguyện vọng Chấm Dứt Đau khổ, đúng theo lời giáo huấn sơ khởi mà vị Thầy Tế độ ban truyền cho giới tử trong buổi lễ xuất gia tỳ khưu.
Ngài Acharn hành giới sống trong rừng rất nghiêm chỉnh suốt phần lớn thời gian, ngoại trừ đôi khi bị bắt buộc phải ở nơi khác (như ở thành phố trong một thời gian ngắn). Khi sống giữa rừng sâu hoang vắng, ta luôn luôn được nhắc nhở về sự đơn độc và ẩn dật. Có rất ít cơ hội để tự mãn. Đối với người có nguyện vọng Chấm Dứt Đau Khổ thì đây là nơi tốt đẹp để phát triển mọi hạnh lành.
7. Sống dưới cội cây.
Cũng như đời sống giữa rừng sâu, cuộc sống dưới cội cây đem lại nhiều lợi ích. Theo Ngài Acharn, khi tâm Ngài giải thoát khỏi mọi trói buộc của thế gian, đó vào lúc ban đêm khi Ngài ngồi dưới tán của một cội cây lẻ loi trơ trọi giữa rừng. Sự kiện này sẽ được tường thuật trong phần sau. Người viết xin quý độc giả thông cảm cho sự dời lại về sau giai đoạn rất quan trọng này.
Ở dưới tán của một cội cây, nơi mà không có che chắn hay bất kỳ sự bảo vệ nào thì hành giả có thể trông đợi đem lại nhiều lợi ích cho hành giả trong phát triển chú niệm. Với niệm không ngừng phát triển, khả năng tiêu trừ ô nhiễm càng vững chắc. Những nền tảng của niệm - thân, thọ, tâm, pháp – là những chủ đề tuyệt hảo để bảo vệ hành giả và diệt trừ ô nhiễm. Tâm luôn luôn chăm chú vào những nền tảng của niệm hay những Diệu Đế nhờ sống cô độc hoặc gặp hiểm nguy là cái tâm được bao bọc bên trong áo giáp và có sẵn khí giới phòng thân trong cuộc chiến cao quý để thành tựu Giải Thoát. Do đó có lời khuyên dạy hành giả muốn gia công cố gắng nên tìm nơi ẩn cư dưới tán một cội cây. Đây là lối sống có thể giúp đem lại nhiều tiến bộ trong Giáo Pháp.
8. Sống trong nghĩa Địa (bên trong hay bên ngoài).
Pháp hành này là phương pháp tuyệt hảo giúp hành giả đề cao cảnh giác, không dể duôi buông lung hay tự mãn. Phần đông chúng ta cố tránh suy tưởng hay nghĩ đến sự chết mà quên rằng trong từng khoảnh khắc, chính mình đang tiến dần đến cái chết. Hãy nghĩ lại xem, bao nhiêu người đã từng sống và đã gửi thân trong những nghĩa trang khác nhau! Những xác chết đã chiếm đầy những giàn hỏa thiêu hay nằm đầy dưới các mộ phần đã từng là những người sống, những người đang đi dần đến cái chết không thể cưỡng, như chúng ta đây. Vậy làm thế nào chúng ta, những người đang sống, có thể thoát khỏi hiện tượng tự nhiên ấy? Viếng thăm một người bạn hay một thân nhân nằm trong nghĩa địa có thể đem lại hai điều hữu ích: trước tiên là nó gợi cho ta những kỷ niệm về người quá cố, và thứ đến là, từ tưởng nhớ người xưa, ta tưởng đến phận mình, tự so sánh với họ và nhận ra rằng chúng ta cũng đang tiến dần đến đó, không thể kháng cự.
Một vị tỳ khưu là biểu tượng sống động cho cuộc chiến nhằm thành tựu Giải Thoát. Vị ấy cần phải nghiên cứu Vòng Sanh Tử - cả bên trong và bên ngoài. Ở bên ngoài, vị ấy có thể nhắm vào những nơi mà tử thi được mai táng, hỏa táng hay vứt cho thú vật ăn. Bên trong, vị ấy được khuyên dạy nên quán niệm về chính cái thân của mình, được cấu hợp bằng vô số những con thú mà chúng ta tích vào đó mỗi ngày. Suy niệm như vậy, khi được trí tuệ hướng dẫn phù hợp sẽ đưa đến “nỗi buồn vô hạn” và tuệ minh sát. Vậy, một hành giả, dù là tỳ khưu hay cư sỹ, ưa thích viếng thăm nghĩa địa – cả bên trong lẫn bên ngoài – quán niệm sự chết như sự sống, tuổi trẻ, sức khỏe, địa vị xã hội, đẳng cấp, chức tước… Một người như thế không thể bị tính kiêu mạn tự cao hay lòng tự phụ chiến thắng, luôn luôn có khuynh hướng nhìn vào lỗi lầm của mình để sửa sai, hơn là tìm điều xấu xa của kẻ khác rồi cố tình vạch trần với ác ý phơi bày. Đây là thói quen được phần lớn mọi người tích trữ, chỉ làm tăng trưởng kho tội mà họ có. Bất hạnh thay! Đây là chứng bệnh truyền nhiễm rất khó chữa trị nhưng lan tràn rất dễ dàng và nhanh chóng.
Nghĩa địa là hội trường lớn nhất của con người, không phân biệt tuổi tác, giai cấp, đẳng cấp hay quốc tịch. Không có cách nào vượt qua khỏi đó, ngoại trừ bằng con đường mà Đức Phật và các Thánh Đệ Tử đã vượt qua. Nhưng công cuộc vượt qua này không thể thiếu việc nghiên cứu kỹ càng về sanh, lão, bệnh và tử. Những ai hành động như con đà điểu để quên những sự thật này thì không có hy vọng nào thoát khỏi, vì những sự thật ấy luôn ở đó, dính liền với họ. Sống trong nghĩa địa là tự mình tu tập để đối diện với sự thật và được sự thật khuyến khích. Đối với tâm thế gian, mới nghe qua hình như vô lý, nhưng pháp này đã được ứng dụng và đem lại thành quả tốt đẹp trong giới những người thực hành Phật Giáo, những người đặt niềm tin vào Đức Phật và các vị Đệ Tử cao cả của Ngài. Hạnh đầu đà này được Đức Phật khuyên dạy như cách làm giảm thiểu những hãnh diện của đời sống và lòng tự phụ, và cũng là cách giúp chúng ta chuẩn bị giờ phút lâm chung trước khi quá muộn. Đến hơi thở cuối cùng, mọi phương cách bảo vệ đều vô hiệu quả. Định luật vĩ đại về cái chết xảy ra. Việc phải làm duy nhất còn lại là thiêu những gì còn lại. Không còn giữ giới, không còn bố thí hay hành thiền, hay các cách tạo phước báu khác có thể bắt đầu hay tiếp tục.
Ngài Acharn luôn luôn khuyên dạy nên viếng nghĩa địa, bên trong và bên ngoài, vì những lợi ích này. Trong hàng đệ tử của Ngài có những vị, mặc dù bản tính sợ sệt, cũng can đảm chiến đấu, để hành hạnh đầu đà này.
__________
(6). “Kéo cái y” ở đây là dịch từng chữ từ tiếng Thái, có nghĩa là chấp nhận cái y bằng cách kéo hoặc rút xuống từ nơi nó được phơi hoặc đặt, trên cái xác, trên cành cây hay ở bãi rác. Đây là để phân biệt với cách nhận cái y như vậy từ tay của tín chủ, và y loại này được gọi là pansukulo trong tiếng Pāli, nghĩa là “y bằng vải lượm trong đống rác.”
^^^
23. Chuyện vị tỳ khưu sợ ma
(Câu chuyện dưới đây do chính Ngài Acharn tường thuật).
Câu chuyện này được thuật lại để cho thấy vị tỳ khưu kinh sợ như thế nào lúc ban đầu và cuối cùng trở nên cam đảm ra sao. Chuyện có thể là bài học cho những ai ở trong hoàn cảnh tương tự.
Lần nọ, một vị tỳ khưu trên bước du phương tu hạnh đầu đà, dừng nghỉ đêm ở một nơi trong rừng. Vị ấy đến vào lúc trời vừa sẩm tối mà không quen biết vùng này, nên hỏi thăm dân làng xem nên nghỉ đêm ở đâu. Người ta đưa sư đến một nơi, nhưng không ai nói là nơi ấy nằm bên cạnh nghĩa địa. Đêm đầu tiên sư ngủ an lành, nhưng ngày hôm sau sư thấy người làng khiêng một tử thi đi ngang qua, rồi hỏa thiêu trên một giàn hỏa chỉ cách đó chừng vài thước, lẽ dĩ nhiên từ nơi sư ở trông thấy rõ ràng. Vào lúc sư nhìn thấy cái quan tài được khiêng đi ngang qua thì bắt đầu cảm thấy khó chịu, nhưng cố gắng tự trấn an rằng giàn hỏa thiêu chắc ở xa xa. Đến khi phát hiện rằng nó chỉ ở cách đó không bao xa và tại chỗ đang ngồi sư thấy rõ phần còn lại của tử thi đang được hỏa thiêu trước mắt, sư càng sợ gấp bội – cái sợ trong hiện tại và cái sợ cho đêm sắp đến. Vào lúc màn đêm buông xuống, nỗi kinh sợ càng tăng trưởng không thể tưởng tượng, đến độ hầu như không còn thở được nữa, dường như sắp chết.
Sau khi dân làng ra về, sư không ngừng bị cơn sợ hãi của chính sư dầy vò hành hạ. Sư đọc những đoạn kinh liên quan đến sự chết rồi ngồi lại hành thiền, nhưng không hết sợ. Mỗi khi nhắm mắt là sư thấy xuất hiện một đoàn ma quỷ rất dài đến thăm. Số ma hình như vô cùng tận, những khuôn mặt mới lạ liên tiếp hiện trong nhãn quan làm cho sư không kịp thở. Đây là cơn sợ khủng khiếp nhất từ khi sư xuất gia.
Sau nhiều giờ được những con ma đó đến thăm, sư bắt đầu thắc mắc tự hỏi rằng tất cả những con ma lảng vảng trong đầu phải chăng chỉ là những hình ảnh do trí tưởng tượng bệnh hoạn của sư tạo ra. Sư tự nhắc nhở rằng một tỳ khưu dhūtaṅga thường được xem là người không bao giờ sợ, người có khả năng đương đầu với cái chết, với ma quái, với bất luận hiểm nguy nào. Sư là một trong những tỳ khưu đó! Tại sao sư lại sợ ma một cách không biết hổ thẹn như vậy? Nếu còn chịu thua sự áp đảo của kinh sợ là mất danh vị tỳ khưu hạnh đầu đà.
Tự khuyến khích mình như thế trong cuộc chiến đấu, sư nhất quyết đi tới nơi mà sợ hãi phát sanh và đương đầu với bất luận cái gì ở đó. Sư đắp y đi thẳng đến giàn thiêu, trên đó một phần tử thi vẫn còn đang cháy trong ánh sáng chập chờn của ngọn lửa. Tuy nhiên, chỉ bước được vài bước thì sư không thể di chuyển nữa. Dường như hai chân của sư thình lình bị đóng đinh dính chặt xuống đất. Tim sư đập mạnh, trong mình mồ hôi nhỏ giọt như bị thiêu đốt dưới sức nóng của mặt trời giữa trưa đứng bóng. Biết rằng mình cần thêm sức mạnh, sư tự ép mình bước tới. Sư bước nhanh chân hơn, sợ rằng còn chần chờ thì sẽ dừng lại nữa. Sư biết cần phải tự chủ thêm để phấn đấu kiềm chế thân và tâm đang chao động nhằm đánh đuổi những ý tưởng như thôi miên cho rằng mạng sống đã đến hồi sắp chấm dứt. Vận dụng tất cả năng lực của ý chí, sư kéo lê cái thân do dự của mình đến giàn hỏa thiêu, tự nhủ trong lòng: “Cái gì sắp xảy ra, hãy để cho nó xảy ra”, nhưng vẫn chưa chiến thắng.
Sư thở hổn hển một cách nặng nề vì vừa cố gắng và thấy như muốn xỉu. Sư cố gắng giữ bình tĩnh, nhìn cái tử thi đã rụi đi một phần và phần còn lại đang cháy, nhưng khi thấy cái sọ cháy trắng trong lửa, sư cảm thấy sắp gục ngay tại đó, ngay lúc đó. Sư đẩy lui nỗi sợ, đến ngồi cách xa tử thi chừng một thước và nhìn thẳng vào đó, lấy đó làm đề mục hành thiền. Sư ép cái tâm lúc bấy giờ rất chao động phải đọc đoạn kinh về sự chết: “Tôi sống đây để rồi chết, cũng như tử thi này. Tại sao tôi phải sợ? Sớm muộn gì cũng phải chết. Sợ có ích gì? Tôi sẽ chết và sẽ giống như tử thi đây. Tại sao sợ? Không nên sợ!”
^^^
24. Con chó dị thường
Trong khi tụng kinh như thế để chiến đấu chống lại cơn sợ ma thì sư nghe thấy một tiếng động lạ thường từ phía sau lưng mình. Tiếng chân đi! Ai đó đến từ phía sau! Tiếng chân bước không đều, dừng một chập rồi lại đi nữa. Có người chuẩn bị tấn công sư từ phía sau! Cơn sợ tràn ngập, hoàn toàn làm chủ sư. Hơi thở của sư càng lúc càng mạnh, chỉ tẹo nữa là sư nhảy vụt lên, bỏ chạy, la bải hải như điên, “Ma! Ma! Cứu tôi với!” Nhưng rồi sư cố gắng lấy lại bình tĩnh, tự buộc mình cứ ngồi yên và chờ xem “nó” sắp làm gì đây. Sư có thể nghe nó nhón chân đến gần, cách sư độ vài thước, rồi có tiếng ai hay cái gì nhai vật gì giòn kháu. “Khi nó ăn xong thức ăn giòn rụm kia thì chắc thế nào cũng nhai ngấu ta, cũng giòn như như thế! Vậy thì đời ta sắp tàn!”, sư nghĩ như vậy.
Sư không thể tự kiềm chế được nữa và chuẩn bị đứng vụt lên bỏ chạy. Mở mắt nhìn xem “nó” là cái gì. Sư nghĩ thầm: “Có thể tìm cách thoát thân để rồi trở lại đây, chiến đấu chống “nó” một ngày nào đó. Còn hơn là bó tay quy hàng trong đêm nay!”
Sư mở mắt nhìn. Trước mắt sư là một quang cảnh bất ngờ, làm sư bật cười vì sự nực cười và hèn nhát của mình. Cái đang chuẩn bị tấn công và ăn thịt sư không gì khác hơn là con chó trong xóm, đánh mùi loanh quanh để kiếm ăn những gì người nhà đem đến cúng còn để lại. Chó không màng để ý đến ai, dù là vị tỳ khưu đang sợ hãi. Nó chỉ quan tâm đến cái gì có thể ăn được còn bỏ lại trên đất.
“Như vậy là con chó đã làm mình điếng hồn từ nãy giờ”, vị tỳ khưu nghĩ như thế và cảm thấy thương hại cho mình, tự thấy mình quá hèn nhát, mặc dù đã quyết tâm đối phó, bất luận gì có thể xảy ra. Nếu vào phút cuối cùng, sư không thể khắc phục cơn sợ bằng Giáo Pháp tự chủ, cái sợ ấy suýt làm sư mất trí.
“Hành động vừa rồi của ta là một sự sỉ nhục đối với người đã khoác y cà sa của Đấng Như Lai, bậc đại hùng Toàn Giác. Quả thật ta đã phụ lòng người để bát nuôi ta, phung phí cơm gạo của bá tánh vì một cơn sợ điên cuồng. Và nếu còn nhiều vị tỳ khưu khác như ta thì sao? Quả là ta đã làm ô danh Phật Giáo!”
^^^
25. Tên phù thủy vĩ đại
Với những ý nghĩ như vậy còn mới mẻ trong tâm, vị tỳ khưu nhất định không rời bỏ nơi này cho đến khi khắc phục kinh sợ, hoặc bỏ thân trong cuộc chiến. Sư nhận ra rằng một vị tỳ khưu mà nhát gan như thế thì hẳn là một gương xấu cho tất cả. Kể từ lúc bấy giờ, sư can đảm đương đầu với tâm hèn nhát sợ sệt bằng cách cứ ở ngay trong nghĩa địa ngày và đêm, so sánh những cái xác không có sự sống kia với cái xác còn “sống” của sư, quán niệm những thành phần và những nguyên tố đất, nước, gió, lửa cấu thành những cái xác kia với cơ thể sống này của chính sư. Không có tâm, cái xác đang sống biến thành cái xác không có sự sống, những nguyên tố khác nhau của tứ đại tan rã và trở về nơi mà chúng từ đó tới.
Một bài học quý giá khác là con chó đã vô tình làm cho sư khiếp đảm đến gần chết. Đó là cái tâm sư không ngừng hoạt động, luôn luôn tạo ra một số điều, thực ra là rất nhiều điều làm tổn thương chính nó. Điều này cũng hé mở sự thật về trí tưởng tượng của con người, quả thật là tên phù thủy thiện xảo có tài trình diễn trò ảo thuật trong cái tâm đã sanh ra nó.
“Trí tưởng tượng của ta làm cho ta gần chết vì sợ hãi”, sư nghĩ. “Giờ đây đã đến lúc ta nắm lại quyền kiểm soát sự tưởng tượng này của ta. Ta phải đem hỏa táng tên phù thủy này, giống như người ta hỏa táng tử thi kia trên giàn thiêu.” Và sư nhất quyết bám sát cuộc chiến. Bất cứ lúc nào kinh sợ phát sanh, sư can đảm khắc phục ngay lúc ấy. Bất luận nơi nào mà kinh sợ hướng về, sư can đảm đi về hướng đó. Đêm đó không ngủ, sư quyết định vật lộn với kinh sợ. Trong những đêm kế đó, sư cũng giữ nguyên ý nguyện chiến đấu, quyết không chùn bước, và cuối cùng sư thành công trong việc “hỏa táng” nỗi sợ.
Câu chuyện trên có thật, nó cho thấy một vị tỳ khưu can đảm chiến đấu như thế nào để tiêu trừ nỗi sợ. Lúc đầu bị nỗi sợ tràn ngập, nhưng cuối cùng đảo ngược tình thế và khắc phục nỗi sợ. Đó là lợi ích của hạnh sống trong nghĩa địa.
9. Mặc tam y.
Ngài Acharn Mun hành trì hạnh đầu đà này ngay từ ngày xuất gia. Chỉ đến lúc tuổi già, cơ thể gầy yếu dần, cần phải được ấm áp hơn và chăm sóc nhiều hơn, Ngài mới tự cho phép mình bớt nghiêm khắc hơn với chính mình và đắp thêm y. Vào thời của Ngài, quý vị tỳ khưu dhutaṅga thích đi đó đây sống trong rừng, ngoại trừ trong mùa nhập hạ. Phần lớn là họ đi bộ, vì lúc ấy không có phương tiện giao thông như ngày nay. Mỗi vị phải mang theo đồ dùng của mình, không ai có thể giúp ai khác. Kích cỡ và trọng lượng của đồ dùng mang theo phải được xem xét kỹ lưỡng vì nó có thể gây trở ngại nhiều hơn là tạo lợi ích, nếu không thực sự là cần thiết. Sau một thời gian, vị tỳ khưu dhutaṅga quen dần lối du phương gọn nhẹ và thích cho người khác xiêm y và các vật dụng mà thiện tín dâng cúng. Đối với những vị đã quen lối sống như vậy thì cất giữ và bận bịu mang theo những vật dụng thừa quả thật là một gánh nặng. Điều này cũng thích hợp với pháp hành đặc biệt của người tu ẩn dật, có một cuộc sống thanh bần và trong sạch. Vị tỳ khưu mà sau khi viên tịch không còn để lại vật dụng nào khác hơn là tứ vật dụng của một vị tỳ khưu thì càng được tôn sùng kính mộ. Khi còn tại tiền, vị ấy được tán dương vì cuộc sống thanh bần Thánh thiện. Sau khi cơ thể tan rã, vị ấy ra đi an lạc, vì tâm thảnh thơi buông xả, không dính mắc vào bất kể cái gì của mình. Đó là chết giữa hoàn cảnh nghèo nàn và trong sạch, vị ấy luôn luôn được chư thiên và người có giới đức cảm phục. Hạnh đầu đà này là một vinh hạnh cho đời sống của nhà sư tu ẩn dật.
Ngài Acharn Mun thực hành hạnh đầu đà này rất nghiêm túc và vào thời của Ngài, ít có ai bì kịp, mà đến tận ngày nay cũng không ai sánh bằng. Ngài thường xuyên dạy các vị tỳ khưu đệ tử nên thận trọng quan tâm, tôn kính và giữ gìn trong sạch pháp hành này. Dưới sự hướng dẫn của Ngài, các vị ấy được dạy sống dưới cội cây, giữa rừng sâu, trên núi cao, trong hang động, bên ghềnh đá, hoặc trong nghĩa địa, toàn là những nơi mà thông thường người đời xem là hoang vu và đáng sợ. Vào buổi sáng, các vị tỳ khưu cũng được Ngài dẫn đi vào làng thọ bát và khước từ bất cứ gì được dâng cúng sau khi trì bình. Về sau thiện tín biết rõ hạnh này chỉ sớt bát đến các Ngài trong khi còn đi khất thực. Các đệ tử của Ngài được rèn luyện chỉ độ thực trong bát, khỏi phải bận tâm phiền phức đến chén đĩa bộn bề. Thức ăn thì để chung trong bình bát. Mỗi ngày chỉ ăn một lần. Hạnh này, Ngài trong sạch giữ gìn cho đến ngày cuối cùng của đời mình.
^^^
26. Mật ngọt của những bài giảng
Nhóm người đi theo Ngài, tỳ khưu, sāmaṇera và thiện tín cư sỹ ngày càng đông. Bất luận nơi nào mà Ngài cư ngụ, số người đến để Ngài dạy dỗ luôn luôn rất đông. Đôi khi sáu, bảy mươi vị tỳ khưu và sāmaṇera cùng ở chung một nơi với Ngài, không kể nhiều vị ở những nơi xa xôi khác cũng tụ hội về. Ngài bảo họ mỗi người ở một nơi riêng rẽ, nhưng không cách nhau quá xa để có thể gọi nhau, hoặc đi dễ dàng đến Ngài khi có thắc mắc cần hỏi, hay muốn nghe chỉ dạy.
Trong những ngày đọc Giới Bổn (Pāṭimokkha, hai lần trong tháng Chư Tăng tụ hội và đọc giới luật căn bản), tất cả các vị tỳ khưu đều tề tựu về nơi Ngài Acharn ở. Sau khi đọc xong Giới Bổn, Ngài thuyết giảng một thời Pháp và giải đáp những thắc mắc được nêu lên. Rồi chư vị tỳ khưu ai về chỗ nấy, dũng mãnh thêm lên do nhờ niềm vui trong Giáo Pháp mà Ngài chỉ dạy, tiếp tục chuyên cần diệt trừ ô nhiễm. Những vị tỳ khưu này tập trung nỗ lực vào ba pháp tu giới, định, và tuệ cùng với các nhiệm vụ đi kèm khác, và thâu gặt thành quả tương xứng với mức độ phát triển và chín muồi của mỗi vị.
Mặc dù nhiều khi có nhiều vị tỳ khưu và sāmaṇera cùng ở chung một nơi dưới sự hướng dẫn của Ngài, nhưng hình như không có vấn đề điều hành khó khăn nào, bởi vì những người đến đây gặp Ngài đều có chung một mục đích là được tu luyện trong hệ thống thực hành của Ngài. Và mặc dù có rất đông tỳ khưu và sāmaṇera cư ngụ trong vùng mà Ngài Acharn lưu ngụ, một khách lạ đến viếng nơi này sẽ lấy làm ngạc nhiên thấy rằng hầu như không có ai xung quanh, nếu khách tình cờ đến vào lúc không có họp, như lúc độ thực chẳng hạn, hoặc giờ thuyết giảng. Ngoại trừ vào những giờ ấy, tất cả đều bận thiền hành hoặc thiền tọa quanh chỗ của mình.
Trong giờ thuyết giảng, chỉ nghe tiếng của Ngài Acharn, còn các vị tỳ khưu và sāmaṇera trong hội trường, dù đông bao nhiêu, đều ngồi hoàn toàn yên lặng. Tiếng nói của Ngài và Giáo Pháp mà Ngài giảng làm cho cử tọa vô cùng cảm kích và hoan hỷ, tất cả những người nghe đều say mê, thời gian hình như ngừng trôi. Cơ thể không thấy mệt mỏi hay cứng tê. Tâm người nghe hòa đồng với Giáo Pháp, mải mê nuốt mật ngọt của Giáo Pháp.
Mỗi buổi họp để nghe giảng đều kéo dài nhiều giờ và được xem là bài học thực hành để trau dồi cả định và tuệ. Vì lẽ ấy, các vị tỳ khưu hạnh đầu đà đặc biệt kính cẩn chú tâm lắng nghe với lòng nhiệt thành tôn trọng vị thiền sư và luôn luôn vui sướng thọ nhận lời chỉ dạy của Ngài. Đối với các vị tỳ khưu ấy, vị thiền sư là tất cả cuộc đời họ, và thậm chí còn hơn thế nữa. Ngài Ānanda xưa kia sẵn sàng hy sanh mạng sống để cứu Đức Phật khỏi bị voi hại khi Devadatta cho voi uống rượu say chạy tới, cũng do lòng sùng kính trong sạch này.
Mức độ mà vị tỳ khưu hạnh đầu đà đặt trọn vẹn niềm tin của mình nơi Ngài Acharn được thấy rõ ràng trong cách họ vâng lời thi hành những chỉ thị của Ngài. Mỗi khi Ngài bảo vị nào đi đến hay ở lại hang động hay vùng rừng núi nào, vị ấy liền sẵn sàng và tự nguyện vâng lời ngay, dù tất cả mọi người đều biết vùng ấy nguy hiểm đến đâu. Thay vì sợ chết, vị ấy rất hoan hỷ được sự tin cậy của Ngài khuyến khích, biết chắc rằng sai biểu như vậy là Ngài gián tiếp tiên đoán sự thành công sắp tới của mình. Sự tiên đoán này cũng tương tự như lời tiên đoán của Đức Phật rằng Đức Ānanda sẽ thành tựu Mục Tiêu Cùng Tột trong ngày Giáo Hội Tăng Già kết tập Tam Tạng Pháp Bảo. Niềm tin trọn vẹn và hoàn toàn đặt nơi vị thiền sư là rất quan trọng đối với hành giả vì nó củng cố năng lực của tâm định, gia tăng tiến bộ và do đó rút ngắn thời gian và đỡ vất vả cho thiền sinh cũng như thiền sư. Niềm tin như vậy tránh cho thiền sư phải lặp đi lặp lại lời giảng làm mệt người dạy cũng như người được dạy.
^^^
27. Chuyến thứ nhì trở lại vùng Đông Bắc – Cách chiến thắng kinh sợ
Nhân chuyến du hành của Ngài lên miền Đông Bắc, một số rất đông người được khuyến khích và nhiệt thành theo chỉ dẫn và hệ thống thực hành của Ngài. Ngài đi qua hầu hết các thị trấn, giảng dạy và khích lệ nhiều người ở mỗi nơi dừng chân hay lưu ngụ. Ngài thường lui tới qua lại nhiều lần các tỉnh Nakhorn Rājasīmā, Srisaket, Ubol Rajathani, Nakhorn Phanom, Sakol Nakkhorn, Udorn Thani, Nong Khai, Loey, Lomsak và Phetchaboon trong địa phận Thái Lan và Vientienne, Tah Kheak trong vương quốc Lào. Trong các vùng ấy và những vùng phía Nam và Đông Nam thị trấn Sakol Nakhorn có nhiều rừng rậm và núi lớn. Ngài thích lưu ngụ lâu dài ở đó để diệt trừ ô nhiễm. Một nơi hoang vu và có đồi núi cao trong làng Pone Sawang tại Sawang Dandin mà Ngài nhập hạ một năm, đến nay vẫn thường được các vị tỳ khưu hành hạnh đầu đà lui tới.
Vào mùa khô, có thể thấy những vị tỳ khưu hành hạnh đầu đà thích nơi hoang vu và cô độc đi du phương quanh vùng. Giường của họ, nếu có, là những chõng tre cỡ hai thước chiều dài, một thước hay thước rưỡi chiều ngang, cao độ năm tấc, làm bằng cây tre đập dập. Chõng như vậy chỉ giành cho một người. Các chõng tre ấy được sắp cách xa nhau khoảng ba hay bốn mươi thước, tùy khu đất của vùng rộng hay hẹp. Trong vùng rộng thì các chõng tre cách xa nhau hơn nhiều. Số hành giả ở trên một khu đất càng ít thì càng có thể cách xa nhau hơn để chỉ thỉnh thoảng họ ho hay hắt xì thì người khác mới nghe thấy. Cây cối và rừng rậm giữa các chỗ ở thì để nguyên rậm rạp, mỗi người ở chỗ mình không thể thấy người gần nhất. Thiện tín phát quang cho mỗi vị một đường kinh hành độ mười tới hai mươi thước dài. Đường kinh hành này được sử dụng ngày và đêm.
Nếu trong nhóm tỳ khưu có một vị sợ ma hay sợ cọp, Ngài Acharn chỉ định cho vị ấy ở vành đai của khu vực, cách thật xa các vị khác. Ngài làm thế nhằm tập cho vị này giải quyết tính sợ của mình. Vị tỳ khưu ấy được giúp cho nhận ra rằng nỗi kinh sợ của mình chỉ do trí tưởng tượng và tính lo nghĩ xa xôi của mình tạo ra những điều không thật sự có. Một khi có đủ khả năng khắc phục tính lo nghĩ xa xôi hoang dại về hiểm nguy và đau khổ, vị ấy sẽ đặt xuống gánh nặng lo âu, không còn phải bận rộn mang kinh sợ theo dính bên mình, bất luận đi đâu, bất luận ở đâu. Theo Ngài Acharn, phương pháp đương đầu để chiến đấu với tính sợ sệt có lợi ích hơn là bỏ chạy, vốn là tự bó tay quy hàng, vĩnh viễn tự làm nô lệ cho nó.
^^^
28. Vị tỳ khưu đầu đà đương đầu với đau khổ như thế nào
Nếu không có chõng tre, các vị tỳ khưu hành hạnh đầu đà sẽ ngủ dưới đất, trên một lớp lá khô hoặc lá tươi, hay nơi nào tìm được rơm thì lót nằm. Trong vòng tháng giêng và tháng hai âm lịch (khoảng tháng 12 và tháng 1 dương lịch), vào cuối mùa mưa, khí hậu rất khó chịu. Mỗi lần mưa đổ, các vị tỳ khưu bị ướt sũng, lạnh thấu xương. Nếu mưa suốt đêm ắt không có ai ngủ. Cái “klod” (cây dù của các vị tỳ khưu dhutaṅga) không đủ che chở hành giả khỏi thời tiết khắc nghiệt, khỏi sự tàn phá của bão kèm với mưa to trút xuống. Mỗi vị ngồi trong cái “klod” của mình trong đêm tối, run lập cập vì lạnh giống như người mù ăn xin nghèo khổ khốn cùng. Ban ngày thì hoàn cảnh có phần dễ chịu hơn đôi chút vì các vị tỳ khưu có thể nhìn được xung quanh để tìm cái gì đó để dựng một chỗ trú để che mưa.
Phải cất giữ kỹ cái y tăng già lê và hộp quẹt trong bát rồi đậy lại thật kín. Dùng lá y ngoại làm mền hay áo đi mưa, trùm lại trong cơn mưa. Bỏ mùng trong cái klod xuống để đỡ bị mưa tạt vào, nhưng nếu trời mưa về đêm hoặc mưa suốt cả đêm thì sáng ra y cũng bị ướt. Như vậy thêm vấn đề khó khăn khi đến giờ vào làng trì bình.
Trong ba tháng kế (tháng hai, tháng ba, tháng tư) trời bắt đầu ấm áp dần. Chư tỳ khưu giờ đây đi tìm nơi cao ráo, ẩn trú trong hang động hoặc dưới mỏm đá. Vào những ngày đầu tháng hai, tháng ba, các nơi này còn ẩm thấp và rất ướt át. Nếu lưu ngụ ở những nơi như vậy thì thường hay bị sốt rét hoặc rét rừng, một chứng bệnh trầm kha làm cho con người mau suy nhược mà vào thời bấy giờ không có thuốc chữa trị. Vị nào mang bệnh này thì phải chịu đựng cho đến khi tự nó chấm dứt. Chính người viết cũng bị bệnh sốt rét và cũng như mọi người, phải sống với nó cho đến khi hết bệnh. Tất cả các vị tỳ khưu hành hạnh đầu đà trong vùng này, từ Ngài Acharn trở xuống, mỗi vị đệ tử của Ngài đều bị bệnh sốt rét, thậm chí vài người đã chết vì bệnh này.
Những mẩu chuyện về đoạn đường gian nan lao khổ này cho thấy lòng can đảm của Ngài Acharn và các đệ tử của Ngài chịu đựng mọi thiếu thốn và bao nhiêu đau khổ trong cuộc chiến cao cả đi tìm Giải Thoát. Chỉ sau khi can trường đối phó với tử thần và sống sót, các Ngài mới đảm nhận việc dạy dỗ kẻ khác, chia sẻ với họ những kinh nghiệm mà mình đã trực kiến được về niềm tin và phương thức thực hành đúng cách.
^^^
29. Nơi ma quỷ và thánh thần ngự trị
Quả thật không phải là quá đáng khi nói rằng trước thời Ngài Phra Acharn Sao và Ngài Phra Acharn Mun, miền Tây Bắc xứ Thái này do ma, quỷ và thánh thần ngự trị. Người dân muốn khởi công khai khẩn ruộng đất hay làm vườn, muốn dựng nhà hay làm bất luận gì khác, đều phải đi coi thầy cúng hay thầy bói để xem ngày lành tháng tốt, đúng năm may, đúng giờ hợp tuổi. Rồi họ được dạy phải bày lễ vật cúng tế để vái làm vui lòng thần thánh trước khi xúc tiến hay toan tính công việc gì. Nếu không làm như vậy, bất luận điều không may nào xảy ra, dù nhỏ mọn hay không đáng kể, cũng đều được coi là do ma quỷ hay thần thánh phẫn nộ. Thậm chí đến những cơn ho hen hay nhảy mũi, rất thường xảy ra đối với những con chó, cũng được xem là do cảnh âm gây nên! Không có chức năng nào của cơ thể mà được độc lập không bị ma quỷ kiểm soát và thầy bói vào thời bấy giờ quả thật toàn tri và toàn năng một cách bất ngờ. Họ luôn luôn tìm ra một duyên cớ để chứng tỏ rằng người nào đó đã làm điều gì xúc phạm đến thần thánh hay ma quỷ nên các vị ấy nổi giận, giờ đây phải có lễ vật cúng tế và van vái thì các bệnh như nóng, lạnh, ho hen hay nhảy mũi hoặc bất luận cái gì khác đều được chữa trị và tiêu trừ. Mặc dù là trong thực tế, triệu chứng của chứng bệnh vẫn còn, người ta vẫn nghĩ rằng vì thầy, “người của quỷ thần” đã nói, điều gì rồi cũng suôn sẻ, viên thành. Rồi do tự kỷ ám thị, lương y và bệnh nhân đều cảm thấy vững dạ, an lòng tin tưởng nơi cái được gọi là oai lực của thần thánh. Thuốc men không mấy quan trọng trong những trường hợp này.
Sau khi hai Ngài Acharn khuyên dạy và dựa theo chân lý của Phật Giáo thức tỉnh họ, lối mê tín dị đoan tin tưởng vào những nghi thức cúng tế quỷ thần để cầu mong xin xỏ điều gì dần dần giảm bớt trong lòng dân chúng. Nhiều vị được gọi là “người của quỷ thần”, giờ đây đã được thuyết phục về 72 chân lý, trở về quy y Tam Bảo, thay vì tin tưởng nơi ma quỷ và thần quyền. Đó là di sản mà hai Ngài Acharn để lại cho dân chúng miền Đông Bắc và di sản tinh thần ấy đến nay vẫn còn được bảo tồn ở nhiều nơi. Người qua lại vùng này không còn phải dẫm chân lên những lễ vật để cúng tế quỷ ma được bày bừa bãi ngoài đường như trong những ngày đã qua. Về phương diện này, người vùng Đông Bắc có thể nói là đã được giải phóng khỏi ách nô lệ của ma quỷ nhờ lòng từ bi dạy dỗ của hai Ngài Acharn. Người vùng Đông Bắc hàm ơn sẽ còn mãi mãi tưởng nhớ phần di sản cao cả và quý báu này.
^^^
30. Trả lời thẳng người hỏi thay vì trả lời câu hỏi
Nỗi bận tâm chính của Ngài Acharn Mun lúc nào cũng là tự mình trau dồi và phát triển nội tâm. Ngài cũng tận tâm giáo huấn người khác, cư sỹ tại gia cũng như chư tỳ khưu và sāmaṇera. Nó cũng có nghĩa là mục đích của Ngài là tạo nên một “người” từ một con người. Trên bước đường du phương vào xóm làng, Ngài gặp những vị cao minh, kiến thức rộng rãi, đến với Ngài để biện luận và chất vấn. Một vài đề tài thường được thảo luận liên quan đến sự hiện hữu của ma quỷ, thánh thần, con người phát sanh từ đâu, nguyên nhân phát sanh tình yêu giữa người nam và người nữ, giữa thú đực và thú cái, trường học nào dạy người và thú về tình dục. Ngài Acharn giải đáp những câu hỏi như vậy và người viết ghi lại tóm tắt sau đây những phần còn nhớ được.
Có ma quỷ không?
Để trả lời câu hỏi này, Ngài Acharn nói: “Bất luận gì hiện hữu thì tự chính nó hiện hữu, dù là ma quỷ, yêu quái, thần thánh hay gì khác. Những thứ đó hiện hữu không phục thuộc vào việc có ai tin hay không tin, điều đó không thay đổi vấn đề. Nguyên nhân làm cho ta đau khổ vì sợ ma quái nằm trong lo âu và tưởng tượng của chính ta. Một cái tâm mà không “đi ra ngoài để tìm” những câu chuyện kinh sợ như vậy đương nhiên sẽ không bị kinh sợ làm cho chao động. Do đó, nỗi kinh sợ hiển nhiên là do trí tưởng tượng của ta tạo ra. Không phải ma thật làm ta sợ.”
Ma có thực sự hiện hữu như một thực thể hay không?
“Mặc dù trong thực tế ma quỷ là có thật, nhưng vẫn không có bằng chứng cụ thể hiển nhiên chứng minh có thể thuyết phục người hoài nghi, bởi vì đa số không thể chấp nhận sự thật này. Một tên trộm bị bắt quả tang chẳng hạn, không mấy khi chịu nhận tội của mình. Dù có nhân chứng nhìn mặt rõ ràng, và như vậy là bắt buộc phải thú nhận, tên trộm vẫn cố gắng tự bào chữa bằng mọi cách. Đến khi vào tù, nếu có người hỏi anh bị tù vì tội trạng gì, thông thường anh ta sẽ nói rằng anh ta bị tố cáo là ăn trộm. Nói cách khác, anh ta vẫn không chịu nhận tội. Đó là khuynh hướng chung của đa số.
Con người Được sanh ra từ Đâu?
Ngài Acharn giải đáp cho người đặt ra câu hỏi một cách khá dứt khoát rằng con người được cha mẹ sanh ra chứ không phải được “sanh ra từ bụng cây” (như một thành ngữ Thái nói, hàm ý rằng đời sống phát sanh từ sanh vật có sự sống). Ngài cũng nói rằng một câu hỏi như thế đáng ra không nên nêu lên.
Nói cho đúng sự thực, con người được sanh ra từ vô minh và ái dục (avijjā và taṇha), nhưng giải đáp như thế không giúp ích gì cho người hỏi, vì có bao nhiêu người sẵn sàng muốn học điều này và chịu cố gắng cần thiết để giảm thiểu vô minh và ái dục của họ? Rõ ràng người hỏi muốn thử Ngài hơn là muốn tìm hiểu chân lý. Dù sao, nên ghi nhận rằng nguyên nhân sự sanh của mỗi người nằm trong tâm mình, vốn bị cái gọi chung là ô nhiễm (kilesa) chế ngự. Nếu chúng ta phân chia các ô nhiễm ấy ra từng thành phần, các phần như vậy có thể được gọi là vô minh, ái dục… như thấy trong Thập Nhị Nhân Duyên – do vô minh nên có tạo nghiệp, v.v.; do có sự chấm dứt vô minh, sự tạo nghiệp chấm dứt… Hãy nhìn thẳng vào tâm ta, ta sẽ có thể hiểu biết con người được sanh ra từ đâu và hiểu biết nguyên nhân sanh đau khổ và phiền lụy trên thế gian. Không cần phải hỏi ai khác, và cũng không cần tìm câu trả lời ở đâu khác. Chính vì chỉ hướng sự suy tư và sự chú tâm ra ngoài mà con người mù quáng, không nhận ra bản chất thật sự của mình, không nhìn thấy những vấn đề của mình và quan trọng hơn cả, không hay biết những ô nhiễm của mình. Một cái tâm hoang dại và không được tu tập như thế hẳn bị lòng tự cao, tự mãn và tật ngoan cố của mình ám ảnh.
Vì sao mà mặc dù không Được giáo dục theo cách thông thường, nam và nữ vẫn tìm Đến nhau Để yêu nhau?
Câu trả lời cho câu hỏi này của Ngài Acharn thật là thẳng thắn và bạo dạn:
“Không có sách nào dạy dục vọng mà dục vọng cũng không được dạy trong trường học nào, và không bao giờ có vị thầy nào dạy. Dục vọng ở trong tâm người nam và người nữ (nghĩ rằng) họ đang yêu, và cũng ở trong tâm của loài thú, mà (chúng ta cho rằng) chúng yêu. Dục vọng làm cho con người cũng giống như loài thú không biết hổ thẹn, dù ở lứa tuổi nào, giai cấp nào, chủng tộc hay quốc gia nào. Không cố gắng kiểm soát hay kiềm chế nó, xã hội sẽ sớm sụp đổ vì tâm của con người sẽ bị ảnh hưởng mạnh mẽ của nó tràn ngập, không thể cưỡng. Phần lớn những đau khổ không thể tả của thế gian đều do ô nhiễm này gây nên, vì chúng ta còn tôn thờ nó như thần linh và khuyến khích thái quá. Một cái tâm bị dục vọng tràn ngập (trá hình dưới hình thức yêu) gây đau khổ cho chính mình và cho người khác, nhiều hơn một dòng sông ngập lụt có thể gây thiệt hại cho dân chúng. Điều quan trọng hơn là lụt bên trong tràn ngập tâm quanh năm, không biết mùa khô ráo. Dục vọng là nguyên nhân làm phát sanh (cái mà chúng ta giả tưởng là) tình thương giữa nam và nữ.”
“Dưới quyền điều khiển của dục vọng, nam và nữ tìm đến nhau để yêu và thỏa thích lẫn nhau. Nhưng tính cách gian xảo quỷ quyệt của dục vọng rất vi tế. Một đằng thì nó đưa đến tình thương, một đằng khác nó nuôi dưỡng sân hận và thù nghịch – những tư tưởng và những tâm tính suy đồi khác. Lúc thì nó đem người nam và người nữ lại gần nhau và tưởng chừng như đây là mối tình thiên thu; lúc thì nó kéo họ tách rời xa nhau, người này chống đối người kia cho đến lúc không còn nhìn mặt nhau, không chịu đựng nhau được nữa.”
“Quý vị đã từng có kinh nghiệm hai mặt của tình yêu chưa?” Ngài hỏi những người chất vấn.
“Bạch sư, chúng con đã có kinh nghiệm”, họ thú nhận. “Thành thực mà nói, chúng con rất chán ngán các cuộc cãi vã giữa vợ chồng chúng con nhưng hình như không thể làm gì khác. Nó chỉ xảy đến, hình như một cách tự nhiên.”
“Quý vị có thực sự chân thành cố gắng tự cứu mình không? Một lối sống như vậy quả thật là tiêu cực, tai hại chẳng những cho một mình quý vị mà cả đến con cái vô tội của quý vị. Khi chịu ảnh hưởng của sân hận trong những cơn giận dữ và thù ghét, quý vị hãy nhớ lại lúc yêu thương. Kết cục là cái nhìn toàn diện cả hai mặt của đồng tiền – yêu thương và thù ghét. Trong nhiều trường hợp, mỗi người đã tỏ ra mình có quyền hay mình hoàn hảo, quên lãng điều gì có thể làm và điều gì không. Một thái độ tinh thần như vậy không khác nào “lấy hai tay chặn nước đại dương”, chắc chắn là thảm hại chua cay và thất vọng – đó chỉ là phần thưởng cho một ước vọng không thể thực hiện. Nguyên tắc này cũng áp dụng cho những người khác trong gia đình, bạn bè, và cho người khác nữa. Tuy nhiên, nếu có người không chịu chấp nhận chân lý này, khăng khăng cố bám vào một ước vọng không thể thành tựu, thì đó là sai quấy và lỗi lầm của họ. Người chấp nhận chân lý được chân lý nâng đỡ (nghĩa là nhờ khả năng chấp nhận chân lý).
Đó là lời dạy về tình yêu của Ngài Acharn.
^^^
31. Linh ảnh phát sanh khi hành thiền cần được khảo sát tỉ mỉ
Khi các tỳ khưu và cư sỹ hội họp quá đông tại một nơi, Ngài Acharn phân ra và chia giờ dạy từng nhóm. Thiện tín họp từ bốn tới năm giờ chiều, còn buổi tối (từ bảy giờ trở đi) dành cho chư tỳ khưu và sāmaṇera. Sau buổi họp, chư tỳ khưu và sāmaṇera trở về chỗ ngụ của mình, tiếp tục gia công tu tập trau dồi tâm.
Nên ghi nhận rằng đây là lối sắp xếp của Ngài để giảng dạy các chư tỳ khưu và thiện tín cư sỹ trong thời gian cư ngụ tại miền Đông Bắc lần thứ nhất và thứ nhì. Trong lần thứ ba tại Đông Bắc, sau khi từ Chiengmai ở miền Bắc trở về và lưu ngụ tại Udorn Thani, phương pháp của Ngài đối với chư tỳ khưu và thiện tín đổi thay nhiều. Điều này sẽ được đề cập đến trong phần sau.
Ngài đặc biệt đặt trọng tâm vào việc rèn luyện chư tỳ khưu và sāmaṇera. Mỗi khi có một vị phát triển một tuệ giác riêng biệt nào, dù là về nội tâm hay ngoại cảnh, Ngài Acharn đặc biệt chú tâm đến cá nhân vị ấy và kêu vị ấy đến chỗ ngụ của Ngài để Ngài theo dõi tỉ mỉ và xem xét tận tường. Mỗi hành giả có khuynh hướng và khả năng riêng biệt, do vậy thành quả thâu gặt cũng riêng biệt cho mỗi người. Mặc dù vậy, kết quả chung cho tất cả mọi người là tình trạng an lạc, thanh bình. Có vài vị thấy những chuyện xảy diễn bên ngoài như ma quỷ, hay chư thiên đến thăm, hoặc thấy tử thi, bộ xương trơ trọi hay chính mình nằm bất động như chết.
Đối với những hành giả sơ cơ, vừa mới đạt đến trạng thái tâm an lạc và còn thiếu kinh nghiệm, ắt không thể hành động đúng cách mỗi khi có hình ảnh gì. Hơn nữa không ai có đủ khả năng để phân biệt hình ảnh nào là thực sự xảy diễn, và cái nào không thật sự hiện hữu mà chỉ do trí tưởng tượng tạo nên. Khi thiếu khả năng tự quán trạch hay phân biệt những hình ảnh thì hành giả dễ trở thành nạn nhân của tình trạng tự thôi miên, xem tất cả những gì mình thấy là thật hay thật sự có.
Điều này rất có hại cho sự tiến bộ của họ. Trong thực tế, số thiền sinh kinh nghiệm như vậy chỉ có vài người, chừng năm phần trăm. Nhưng đối với những vị này, được tu tập dưới sự hướng dẫn của một vị thiền sư đầy đủ khả năng là điều tối quan trọng. Bằng không, họ sẽ lạc lối và đi lầm đường.
Lắng nghe những vị tỳ khưu hành đầu đà trình Pháp, tức là nói lên với vị thiền sư những gì xảy ra trong khi hành thiền, quả thật là một hứng thú. Càng hứng thú hơn khi được nghe những lời chỉ dạy của Ngài đối với họ. Mỗi giải đáp đi sâu vào chi tiết và dựa trên lý trí, Ngài dạy họ làm thế nào để ứng xử phù hợp với mỗi hình ảnh trong mỗi trường hợp đặc biệt.
Có nhiều loại hình ảnh, và như vậy, có nhiều phương cách để ứng xử phù hợp với mỗi loại. Sau khi nghe giải thích, cuối cùng vị đệ tử có hình ảnh rất hài lòng, thỏa mãn với lời giải thích và cùng lúc, được khích lệ, phấn khởi, vững chắc trong pháp hành. Người không thấy hình ảnh gì thì mô tả cho Ngài Acharn họ hành thế nào và được an lạc, hạnh phúc ra sao. Lắng nghe những kinh nghiệm khác nhau của mỗi thiền sinh trình pháp là một niềm vui và một nguồn năng lực tinh thần đối với người cùng nhau tu học, cùng gia công nỗ lực theo một chiều hướng tiến đến mục tiêu chung. Có những vị, khi nhập cận định upacāra samādhi thì du hành trên các cảnh trời trong nhiều giờ. Cũng có những vị khác đi vào những cảnh đen tối cùng cực, và chạnh lòng xót thương cho những chúng sinh đang gặt quả xấu của nghiệp trong quá khứ. Những vị khác nữa có thể tới thăm cả hai cảnh vô hình này, và thấy những khác biệt cách xa giữa những hoàn cảnh sinh sống đó. Vài vị có thể hay biết rằng có chư thiên đến thăm mình và nghe được tiếng kêu của ma quỷ. Những người khác thọ hưởng hạnh phúc, an lạc, thanh bình nhờ tâm an trụ nhất điểm, tùy thuộc mức độ gom tâm hay định. Vài vị còn sơ cơ, tiến bộ từng lúc như các em bé mới chập chững biết đi, một lúc đứng lên rồi một lúc té xuống lại. Cũng có vị, khi nghe người khác trình pháp với Ngài Acharn thì quệt nước mắt vì sung sướng thấy chính mình cũng có những kinh nghiệm tương tự. Rồi cũng có những người giống như cái muôi nằm trong nồi canh hay nồi cari, không hay biết gì đến hương vị của canh hay của cari, làm mất danh tiếng của thầy. Trong một xã hội gồm đủ thành phần, tất nhiên có đủ hạng người. Người trí thì hiểu biết thế nào để chọn điều hữu ích và gạt bỏ những gì nguy hại.
^^^
32. Thân tâm tự do – Hạnh phúc và an lạc của vị tỳ khưu đầu đà
Trong chuyến đi lần thứ nhì lên miền Đông Bắc, Ngài Acharn lưu lại đây nhiều năm, mỗi năm nhập hạ tại một nơi. Sau ba tháng an cư kiết hạ, Ngài lại ra đi, tiếp tục trở lại cuộc du phương trong các vùng rừng núi hoang vu, buông bỏ tất cả không nấn ná gì, người cũng như vật, như chim trời cất cánh tung bay, không mang gánh nặng nào khác hơn là thân mình và bộ lông. Cành nào chim cũng đậu, ao nào chim cũng đáp xuống kiếm ăn, không có bất kỳ luyến ái nào. Không cố giữ lấy gì với những ý nghĩ như cái cây này “của tôi”, hoặc đây là cái ao vũng “của tôi.” Cũng như vậy, vị tỳ khưu hành hạnh đầu đà cũng có lối sống giống như chim, nhẹ nhàng và tự do như chim. Đúng rằng đối với đa số, loại hạnh phúc và nhàn nhã này quả thật khó hiểu, vì một người thường khó có thể sống theo lối này, bởi con người là một chúng sanh có lối sống hợp đoàn. Con người thích sống hợp quần, tụ hội với nhau và cùng ở chung với nhau.
Không phải tất cả mọi người đều có thể làm được như Ngài Acharn đã làm, sống cuộc sống khắc khổ, cuộc đời cương quyết và tinh tấn của một vị tỳ khưu hành hạnh đầu đà. Đối với người thường, cố gắng làm như Ngài không khác nào bắt một con vật thường sống trên bờ thả xuống cho sống dưới nước. Tuy nhiên, khi tâm hòa hợp nhịp nhàng với Giáo Pháp thì thái độ của nó đảo ngược. Sống đơn độc và ẩn dật là hạnh phúc thực sự. Một người với cái tâm như vậy thích sống đơn độc một mình, đi đây đi đó một mình, hành động một mình. Tâm của vị ấy là một “cái tâm đơn độc” – đã vượt ra khỏi mọi vấn đề khó khăn và mọi phiền lụy, nhưng luôn luôn thấm nhuần hạnh phúc của Giáo Pháp. Như vậy, một người được diễm phúc có tâm nhất điểm, một cái tâm chỉ kiên cố bền chặt trong Giáo Pháp, cũng được diễm phúc có tâm không bị che lấp, sáng chói và an lạc thanh bình. Người ấy chỉ có thân, không còn gánh nặng nào khác nữa. Và tâm người ấy vượt ra ngoài mọi chao động. Nguồn hạnh phúc của một cái tâm như thế là vô tận và không biến đổi, không bị thời gian hay không gian hạn chế. Nó đã vượt lên trên tất cả mọi giả thuyết và mọi ảo tưởng sai lầm. Cuộc đời của Ngài Acharn là như vậy, luôn luôn sống trong trạng thái an lành và hạnh phúc, dù ngồi, đi, đứng, hay nằm hoặc hướng dẫn chư vị đệ tử tỳ khưu và cư sỹ thiện tín. Một số các vị đệ tử này cũng đã vững chắc tiến bộ trong định và tuệ, và cũng như Ngài, nhận lãnh trách nhiệm một cách hoàn toàn vị tha, tận tâm gánh vác việc dạy dỗ người khác cho đến ngày nay.
Đôi khi trên đường vào xóm trì bình trong buổi sáng, Ngài đề cập đến những con thú gặp bên đường, lấy đó làm đề tài giảng dạy, chỉ cho các đệ tử thấy nỗi gian lao khổ cực của những con thú ấy, đang gặt hái quả dữ của nghiệp bất thiện nào mà chúng đã tạo trong quá khứ. Ngài dạy không nên đối xử tệ bạc và khinh khi chúng chỉ vì chúng là thú. Vì trong quá khứ có lần đã gieo nhân xấu nên giờ đây chúng phải đau khổ gánh chịu hậu quả. Đời người cũng thế, lúc thì phải gánh chịu quả dữ, lúc khác hưởng quả lành của những nghiệp quá khứ. Gà, chó, trâu, bò cũng thường là những đề tài để Ngài chỉ dạy. Một phần, có lẽ đó là vì Ngài động lòng bi mẫn, thương xót những con thú đang đau khổ. Phần khác, có lẽ Ngài muốn cho thấy rằng hiện nay chúng ta là người, nhưng vào một thời nào, cũng có lúc, ta mang lông đội sừng, và như vậy nên thận trọng. Phần khác nữa, tâm của chúng ta thay đổi vô chừng, luôn luôn chao động và phóng đi rất xa. Nó sâu kín lẩn núp và lừa đảo ta một cách rất xảo quyệt. Nếu không thận trọng đối phó đúng cách, không kìm giữ nó lại theo con đường chân chính thì mối nguy hiểm đang núp kín ấy vẫn còn trong tâm và không thể chấm dứt trạng thái tâm vọng động, hoặc không thể có an toàn do những ảnh hưởng nội tâm. Những đề tài trên đường trì bình có thể là hữu hiệu cho những ai biết lấy đó làm bài học.
^^^
33. Cách chư thiên tôn kính Giao cảm giữa tâm và tâm
Trong thời gian lưu ngụ tại vài tỉnh thành Đông Bắc, Ngài Acharn biết rằng đôi khi có chư thiên trên quả địa cầu đến nghe Ngài giảng cho các đệ tử lúc về khuya. Cả chư thiên trên quả địa cầu và chư thiên ở cảnh trời đều vô cùng tôn kính Ngài. Mỗi khi xuống nghe thuyết Pháp lúc về khuya, những vị trời ấy không đi qua khu cư ngụ của chư Tăng mà đến bằng một ngả khác. Khi đến, các vị ấy đi nhiễu quanh Ngài Acharn ba vòng, luôn luôn để vai phải về phía Ngài. Rồi họ ngồi, tất cả giống nhau trong một tư thế, rất lễ phép. Vị lãnh đạo trình với Ngài từ đâu họ đến và muốn nghe Ngài giảng về điểm nào trong Giáo Pháp. Ngài Acharn chào đón bằng tâm và trong một lúc, “rút vào im lặng”, rồi xuất ra với một đề tài thích hợp với họ. Ngài bắt đầu thời Pháp, giải thích nhiều sắc thái khác nhau của Pháp làm cho họ hoan hỷ. Họ rất hoan hỷ cảm tạ Ngài bằng cách nói lên ba lần như người “Sādhu! Sādhu! Sādhu!” (có nghĩa “Lành thay”) mà chỉ ai có tai chư thiên mới nghe được họ, chứ những người có “tai sứ” hay “tai trầu không” không thể nghe được. Sau đó, một lần nữa, họ nhiễu ba vòng quanh Ngài như lúc đến rồi ra đi.
Cung cách ra đi của chư thiên thật là thanh nhã, dịu hiền và dễ mến, con người không thể sánh bằng. Có lẽ điểm khác biệt này là do cơ thể họ tế nhị và nhẹ nhàng hơn người. Khi đi ra khỏi khu vực thiền viện hoặc nơi cư ngụ của chư tăng, họ bỗng nhiên dịu dàng tung bay lên không trung như bông gòn trước gió. Lúc họ đến cũng như vậy, họ tụ họp phía ngoài khu vực và từ ngoài, trang nghiêm kính cẩn tiến đến Ngài Acharn. Cách đi của họ quả thật đoan trang từ tốn trông rất đẹp mắt. Không phải như một vài nhóm người, chư thiên trân trọng giữ im lặng không một tiếng động khi đến gần người mà họ tôn sùng kính mộ. Có lẽ đây là điểm họ hơn con người (cho đến lúc nghe giảng Giáo Pháp vài người vẫn không thể ngừng chuyện). Trong khi nghe giảng, họ hoàn toàn tự chủ, không bao giờ nhìn ngó quanh quẩn, không bao giờ tự phụ, kiêu hãnh chen vào thời Pháp để chất vấn giảng sư.
Thông thường Ngài Acharn được báo trước về mục đích viếng thăm của họ. Chẳng hạn họ muốn đến vào lúc nửa đêm, thì chiều tối hôm đó Ngài đã biết. Trong trường hợp như vậy, Ngài hủy buổi họp của chư tăng tối hôm đó và ngồi thiền sau khi đi kinh hành. Gần đến giờ, Ngài (xuất ra khỏi tầng nhập định thứ ba gọi là appaṇā, toàn định) hạ xuống tầng (thứ nhì) upacāra samādhi, cận định (7) . Nếu họ chưa đến, Ngài nhập lại trạng thái toàn định một thời gian rồi quay lại cận định. Đôi khi họ đến sớm, chờ ở ngoài, những khi khác họ vừa đến và nhanh chóng tụ hội chật kín khu vực. Có khi họ xin đến vào lúc hai hay ba giờ sáng, rất ít khi ba giờ. Như vậy Ngài ngủ một chút sau khi đi kinh hành và ngồi thiền, rồi thức dậy đúng giờ hẹn.
Nhóm chư thiên đến nghe Ngài giảng ở vùng Đông Bắc không được đông đảo như những vị ở vùng phía Bắc. Nhưng cũng có vài vị lén đến nghe, khi Ngài giảng cho các vị tỳ khưu đệ tử. Khi biết điều này, Ngài Acharn liền ngưng giảng và giải tán buổi họp. Ngài ngồi thiền để giao tiếp với họ rồi giảng cho họ một thời Pháp. Khi họ ra về, Ngài tiếp tục những hoạt động hàng ngày đến sáng hôm sau.
Giao tiếp với chư thiên, những chúng sanh vô hình, là điểm đặc thù của Ngài. Lời hẹn không được xê dịch vì họ luôn luôn giữ đúng lời hứa và khiển trách vị nào đến không đúng giờ. Một đặc điểm khác của những chúng sanh vô hình này là họ rất kính nể và vâng lời vị lãnh đạo, luôn luôn lắng nghe và thực hành chỉ thị nhanh chóng. Thông thường họ đến cùng với vị lãnh đạo của họ.
Cuộc đàm thoại giữa Ngài Acharn và các chúng sanh vô hình diễn ra giữa tâm với tâm, không có hàng rào ngôn ngữ phân cách như trong xã hội loài người và loài thú. Cách giao tiếp như thế càng tiện hơn vì không cần ngôn ngữ. Tâm này chạm tới và cảm nhận tâm kia và mọi thứ được hiểu ngay, cũng giống như cách những dòng chữ được viết lên, và trong thực tế là hiệu quả hơn. Giao tiếp tâm truyền tâm như vậy là trực tiếp và tạo nên kết quả mong muốn mà không cần cố gắng và không lãng phí thì giờ chọn từ, sắp câu để diễn đạt chính xác ý nghĩa của nội dung. Dù cố gắng đến đâu khi dùng những phương tiện ngôn ngữ, viết hay nói, cũng vẫn thường có khoảng trống và có thiếu sót. Như vậy ta luôn luôn có thể hiểu sai chữ hoặc câu của người khác, dù rằng cả hai đều rất thận trọng và tỉ mỉ. Thành thật mà nói, từ ngữ không thể hy vọng nối liền hay lấp đầy khoảng cách giữa hai tâm. Nó không phải là phương tiện truyền thông toàn hảo, điều này luôn phải được những người tôn thờ chữ nghĩa ghi nhớ.
Tuy vậy, chừng nào mà tâm chưa thể có được cách giao tiếp trực tiếp và chính xác nhất thì vẫn không thể loại bỏ được cách giao tiếp bằng ngôn ngữ. Trong khi chúng ta phải tự hài lòng với nó, chớ nên quên rằng nó không phải là toàn hảo, và ta không thể chuyển tải tất cả những gì trong tâm ra thành lời. Ta phải chấp nhận ngôn ngữ như nó là vậy, không hơn cái nó có thể là hay làm được. Đối với Ngài Acharn, giao tiếp tâm truyền tâm là thành tựu riêng của Ngài. Nó thuộc về khả năng của Ngài và Ngài có thể sử dụng khả năng đó bất kỳ khi nào Ngài muốn.
__________
(7). Định, samādhi, ở tầng đầu tiên có tên là khaṇika, định tạm thời, hay tạm định. Đây là tâm an trụ tạm thời cho người chưa có rèn luyện tâm. Trạng thái tâm định này không đủ khả năng tiếp nhận những thông điệp từ bên ngoài, hoặc giao tiếp với các chúng sanh vô hình. Định, samādhi, ở tầng thứ ba được gọi là appaṇā, hay toàn định, trạng thái định trọn vẹn, quá thâm sâu để nhận các thông điệp từ bên ngoài và giao tiếp với chúng sinh vô hình. Tầng appaṇā toàn định này dùng để ẩn dật và nghỉ ngơi để tĩnh dưỡng tình thần, hoặc để củng cố tầng định thứ nhì có tên là appaṇā, cận định.
^^^
34. Chữa bệnh đậu mùa – Rải tâm từ hàng ngày
Trong thời gian này, việc hành thiền và giáo huấn của Ngài Acharn tiến hành suôn sẻ đều đặn, bất luận nơi nào đến và lưu ngụ Ngài luôn luôn được an lành và hạnh phúc. Lối thực hành và những lời dạy của Ngài gây cảm kích mạnh mẽ đến những vị tỳ khưu và sāmaṇera. Thiện tín cư sỹ cũng lấy làm vui thích mỗi khi được nghe Ngài giảng. Họ kéo đến tụ họp thật đông để nghe Ngài thuyết giảng. Phẩm cách và những Pháp thoại đầy ấn tượng của Ngài dồi dào tưởng thưởng họ.
Có một làng tên Bahn Tham của quận Tha Kheak nằm bên kia sông Cửu Long (Mekong) trong vương quốc Lào. Ngài Acharn Sao và Acharn Mun trước kia có một thời ở tại đó. Ít lâu trước khi Ngài Acharn Mun đến đó thì hầu hết mọi người trong làng đều bị đậu mùa. Khi Ngài đến họ vô cùng hoan hỷ, từng đoàn chạy ra khỏi nhà đến đón mừng và van xin được quy y với Ngài. Ngài hội họp họ lại và dạy họ nên chấp nhận Phật, Pháp, Tăng làm nơi nương tựa, thay vì tin tưởng nơi quỷ thần và ma quái. Ngài cũng dạy họ tụng niệm như cúng Tam Bảo vào buổi sáng và buổi tối trước khi đi ngủ, ngoài hai buổi lễ tụng kinh tập thể. Họ sẵn sàng vâng lời và nghiêm chỉnh thi hành. Ngài cũng tự mình thực hành, làm những gì cần thiết để trau dồi và phát triển nội tâm.
Vào lúc bấy giờ xảy ra một diễn biến nhiệm màu kỳ diệu. Từ lúc Ngài đến, không còn người chết vì bệnh đậu mùa nữa, mặc dù cho đến ngay trước hôm đó, mỗi ngày đã có nhiều người mắc bệnh và qua đời. Những người đang bệnh thì nhanh chóng hồi phục và lạ lùng thay, chứng bệnh truyền nhiễm tai hại này bỗng dưng ngưng hẳn. Diễn biến bất ngờ chưa từng thấy này tạo nên một ấn tượng khó phai mờ, và cho đến nay làm vững thêm đức tin của người trong làng. Vị tỳ khưu trụ trì ngôi chùa làng cũng vô cùng cảm kích, đặt ra một thông lệ cho dân làng là mỗi khi nhắc đến tên hoặc trước khi nói gì đến hai Ngài Sư khách thì phải chắp hai tay lại để tỏ lòng tôn kính. Đây là ảnh hưởng của tâm từ mà Ngài Acharn Mun ban rải đến cùng khắp đã tạo kết quả an lành, hạnh phúc cho thế gian.
Ngài Acharn nói rằng mỗi ngày ba thời, buổi trưa trong lúc ngồi thiền, buổi tối trước khi đi ngủ và sáng sau khi thức, Ngài đều rải tâm từ trải rộng bao trùm tất cả chúng sanh. Nhiều lần khác trong ngày hay đêm, Ngài chuyên chú vào một nhóm nhỏ (có thể một cách đặc biệt hơn). Những thời rải tâm từ đặc biệt này không nhất định và không thể kể đếm. Trong khi rải tâm từ sâu rộng, trước tiên Ngài lắng tâm an trụ và dùng năng lực của tâm quân bình (tâm xả) ấy rải khắp các cảnh giới, bên trên, phía dưới và chung quanh, không gián đoạn. Tâm của Ngài lúc bấy giờ trong sáng không thể tả vì không ranh giới, không bị trở ngại, và rực rỡ sáng ngời, hơn cả trăm hay ngàn lần ánh sáng mặt trời. Không có gì sáng chói hơn tâm hoàn toàn trong sạch. Những tia sáng xuất phát từ một tâm tuyệt đối trong sạch soi tỏ thế gian và nhờ ảnh hưởng êm dịu của nó, làm cho cả thế gian đều mát mẻ. Trong ánh sáng của Giáo Pháp, không có gì độc hại. Người có tâm trong sạch và từ bi, dù đi đâu hay ở nơi nào, cũng được chư thiên và nhân loại hoan hỷ đón mừng và kính mộ. Cả đến loài thú cũng không ngờ vực lo sợ. Chúng cũng biết rằng vị này không gì làm tổn hại. Những rung động của tâm từ, phát ra từ một cái tâm như thế bao trùm tất cả, không sót một ai, tựa như những giọt mưa sa, tràn đầy mặt đất.
^^^
35. Lợi ích của vùng hoang vu – Tâm và ô nhiễm
Trên đường trở về từ vùng Ubol Rajathani Ngài Acharn nhập hạ đầu tiên tại làng Nonglahd trong tỉnh Sakol Nakhorn. Có rất đông đệ tử, tỳ khưu, sāmaṇera và thiện tín cư sỹ, tất cả đều hoan hỷ, rất phấn khởi được gặp lại và nghe Ngài thuyết giảng. Tuy nhiên không phải họ phấn khởi vì đức tin mù quáng hay vì lòng tôn sùng cá nhân, mà vì lòng nhiệt thành mong muốn và hăng say làm việc thiện, tránh điều ác, từ bỏ lòng tin ma quái quỷ thần và chấp nhận Tam Bảo làm nơi nương tựa. Sau mùa an cư kiết hạ, như thường lệ Ngài ra đi tiếp tục cuộc du phương. Lần này Ngài đi đến tỉnh thành Udorn Thani, xuyên qua các quận Nong Bua Lamho và Bahn Phue. Ngài nhập hạ tại Bahn Kol một lần và lần khác tại quận Ta Bo, cả hai đều nằm trong tỉnh Nong Khai. Tại hai nơi ấy Ngài lưu lại vài năm.
Phần lớn các nơi mà Ngài lưu ngụ đều nằm trong vùng rừng núi hoang vu, các làng cách nhau rất xa. Vùng đó thưa dân, con người biết nghe và thành kính với Giáo Pháp, và rừng hoang thật hoang. Có rất nhiều cây to bóng mát. Không ai nghĩ đến việc đốn hạ các cây này. Thú rừng đi lại tự do. Về đêm thường có tiếng kêu của nhiều loài thú khác nhau, sống đó đây trong rừng. Đối với vị tỳ khưu dhūtaṅga, những tiếng kêu tương tự làm cho tâm mình an tĩnh và từ bi (thay vì sợ sệt). Không phải như tiếng động mà con người gây nên, tiếng thú kêu không khuấy nhiễu hay làm phóng tâm. Có lẽ vì đối với người, tiếng kêu của thú không mang lại ý nghĩa nào, trong khi tiếng động do người gây nên, dù là nói chuyện hay cãi vã, tiếng đàn ca múa hát hay của các loại giải trí khác, vẫn mang theo những ý nghĩa mà con người hiểu được và làm cho tâm người nghe liên tục theo dõi. Trong lúc vị tỳ khưu đang hành thiền thì đó hẳn là một khuấy động. Và tiếng động kia phát xuất từ một người nữ thì ảnh hưởng của nó càng tai hại và khốc liệt hơn. Không có tâm định kiên cố che chở thì nguy cơ sa ngã ắt càng cao. Dĩ nhiên, nói như vậy không phải để khiển trách phụ nữ. Đây chỉ là nói lên sự thật có thể thỉnh thoảng xảy đến cho một vị tỳ khưu và được nhắc đến như một lời cảnh tỉnh, giúp vị ấy thận trọng gìn giữ tác phong đúng đắn trong cuộc chiến đấu nhằm thành tựu mục tiêu Chấm Dứt Đau Khổ.
Trong suốt cuộc đời tỳ khưu (ngoại trừ một vài thời gian) Ngài Acharn Mun sống trong rừng sâu hoang vắng. Vì lẽ ấy Ngài có thể phát triển đầy đủ năng lực để thành đạt trọn vẹn Mục tiêu cùng tột và sau đó giúp chúng ta thành tựu chứng đắc như Ngài.
Trong thời gian tận lực chuyên cần thì dường như Ngài bị một chứng bệnh kinh niên vô cùng nguy kịch làm hao mòn đến độ hy vọng sống sót rất mong manh, khó lòng vượt khỏi những cơn trở chứng dồn dập. Thân và tâm Ngài lúc nào cũng phải trải qua một cuộc rèn luyện và thuần hóa nghiêm chỉnh. Không ngày hay đêm nào trôi qua mà Ngài không tích cực chiến đấu, mặc dù trong khi ấy cơn bệnh làm cho Ngài vô cùng đau đớn. Không bao giờ mong mỏi được rảnh rang giải trí. Ô nhiễm xem lẫn, trà trộn với tâm một cách rất vi tế. Thật khó tách rời ô nhiễm ra khỏi tâm. Chỉ trong một chớp nhoáng thiếu chú niệm cũng đủ để cho ô nhiễm nhanh chóng nhảy vọt vào tâm. Và một khi níu được tâm thì càng ngày chúng càng bám siết vào. Vì lẽ ấy cần phải kiên trì và liên tục canh phòng, thận trọng không để chúng lén lút đến gần và ra tay hoạt động, và phải can đảm tấn công không chút thương hại khi chúng buông lơi sức bám vào tâm ta. Chỉ có bằng cách ấy mới xây dựng được một hàng rào phòng thủ đủ kiên cố và tâm mới được an toàn trước nanh vuốt của ô nhiễm.
Sau khi thành đạt mức An toàn ấy Ngài mới ra đi khỏi khu ẩn dật để dạy người khác. Giờ đây có rất nhiều người - tỳ khưu, sāmaṇera và hàng tại gia cư sỹ – đến từ bốn phương và đến không dứt, nhiều đến độ lắm khi không đủ chỗ cư ngụ. Từ đó, đông người trở thành gánh nặng cho Ngài, phải nghĩ đến tình trạng an lành và sự an toàn cho họ, nhất là cho những bà tín nữ và những vị nữ tu sỹ áo trắng.
Lần nọ, Ngài lưu tại làng Bahn Mee Na Yoong, quận Bahn Phue của tỉnh Udorn Thani. Vùng này thưa thớt dân cư, có nhiều thú rừng gồm cả cọp hùm hung dữ thỉnh thoảng tới thăm nơi Ngài và các đệ tử cư ngụ. Thật là nguy hiểm cho những người tới thăm Ngài và ở lại qua đêm. Ngài phải yêu cầu dân làng cất sàn nhà đủ cao khỏi tầm nhảy của cọp để bảo vệ người nằm trên đó. Trong đêm, họ không được phép xuống dưới sàn, và nên để sẵn chậu hay thùng chứa trong nhà phòng khi cần phải đi tiểu tiện hoặc đại tiện. Khách (từ xa đến) không được phép lưu lại nhiều ngày vì cọp quanh vùng này thật dữ và rất dạn. Dân làng và chư vị tỳ khưu đều biết rõ điều này. Cọp thường đến bắt trâu, rượt đuổi làm cả đàn kinh sợ hoảng chạy về làng. Nhiều lúc trong đêm, khi thiền hành trên đường kinh hành ở hai đầu có hai ngọn đèn cầy trong lồng đèn rọi sáng, Ngài thấy một con cọp to lớn đường hoàng theo sau một bầy trâu đi ngang qua. Cọp hoàn toàn thản nhiên không màng để ý đến ai.
Những vị tỳ khưu hành đạo dưới sự hướng dẫn của Ngài phải chuẩn bị sẵn sàng để đối diện bất cứ điều gì và mọi điều có thể xảy ra. Họ đang sống giữa một vùng rừng núi hoang vu và nguy hiểm mà không có gì che chắn hay bảo vệ. Họ phải từ bỏ tính tự mãn kiêu căng và tự trọng, và xem các vị khác trong nhóm như những bộ phận khác nhau của cùng một cơ thể. Đây là những yếu tố thiết yếu để tiến đến trạng thái định, dỡ bỏ được chướng ngại ngăn chặn sự Chứng ngộ trong khi hành thiền. Tâm đã bị nhốt lại như ở những nơi nguy hiểm, thiếu ăn và không đủ những vật dụng cần thiết và luôn luôn bị bó trong chánh niệm thì ắt ở trong vị thế dễ dàng lắng dịu, sớm an trụ nhất điểm (hơn là không bị gò bó và kiềm chế). Bên ngoài thì hiểm họa sẵn sàng chờ đó; bên trong cũng vậy, tâm chú niệm không ngớt lặp đi lặp lại những lời cảnh cáo. Rồi lại có Ngài Acharn luôn luôn kiểm soát những cảm xúc và những ý nghĩ sai lạc. Tâm như một tù nhân không ngừng bị kìm kẹp cả trong lẫn ngoài, tự nó phục tùng tuân theo đường lối huấn luyện và kỷ cương, và trong thực tế, đó là điều kiện đưa tâm đến mức thánh thiện cao trỗi. Thành quả thường là bất ngờ và không bao giờ dám mơ tưởng đến.
^^^
36. Sợ hãi và Giáo Pháp
Ban đêm, khi cảm thấy tâm bị kinh sợ khuấy động thì vị tỳ khưu buộc mình phải đi thiền hành ngoài trời. Đây là cuộc chiến giữa sợ hãi và Giáo Pháp. Nếu cơn sợ thất bại, tâm sẽ có nhiều dũng lực và an trụ dễ dàng, trạng thái định càng thâm sâu. Nếu kinh sợ chiến thắng, nó sẽ tăng trưởng một cách nhanh chóng phi thường. Toàn thân bị bao phủ trong cả cơn nóng toát mồ hôi và cơn lạnh ớn xương sống, mắc tiểu tiện, đại tiện luôn. Vị tỳ khưu ấy sẽ ngộp thở và trông giống như kẻ chết hơn là người sống. Tiếng gầm dọa nghe sởn tóc gáy của một con cọp ở đâu gần đó hay từ xa vọng lại – từ dưới chân núi, trên đỉnh đồi, hay dưới đồng bằng – chỉ làm tăng trưởng cơn sợ ngộp thở ấy. Từ hướng nào hay từ khoảng cách bao xa vọng lại, điều đó không quan trọng đối với vị tỳ khưu như vậy. Vị ấy chỉ nghĩ rằng con cọp kia đang tiến đến mình để ăn thịt và đến ngay tức khắc! Dù khu rừng rộng lớn bao nhiêu, vị ấy cũng bị cơn sợ của chính mình ám ảnh và tin chắc rằng con cọp kia không biết nơi nào khác để kiếm mồi mà chỉ có ở đây. Những đoạn kinh đọc tụng để ngăn ngừa sợ hãi thì tan biến đâu mất. Mỉa mai thay, những gì còn lại của bài kinh chỉ làm tăng trưởng nỗi kinh sợ. Vị ấy sẽ tự mình tụng cho chính mình nghe: “Cọp đang tới! Cọp đang tới!”
Đó là lối thất bại của một vị tỳ khưu như vậy và công phu trau dồi Giáo Pháp của vị ấy. Đó là chấp nhận chịu thua trước khi bắt đầu cuộc chiến. Đó là hậu quả của sự từ bỏ Giáo Pháp. Đường lối chân chánh là chú tâm vào một điểm nào của Giáo Pháp, chẳng hạn như suy niệm về sự chết, để giữ tâm ở lại bên trong và cắt nó khỏi nguồn gốc của sợ hãi ở bên ngoài. Khi còn sống cũng như lúc chết, tâm không nên tách rời khỏi đoạn kinh mà mình đang tụng hay Giáo Pháp mà mình đang suy niệm. Tâm trong Giáo Pháp ắt có trang bị đầy đủ để tự vệ. Nó sẽ vững chắc không lay chuyển, dù cơn sợ tấn công dồn dập như thế nào, và rồi lòng quả cảm sẽ đến.
^^^
37. Xả ly và buông bỏ
Ngài Phra Acharn thường dạy đệ tử nên hy sinh tất cả những gì mà họ nghĩ rằng của họ, gồm luôn cả tâm và thân này, nhưng không bao giờ từ bỏ Giáo Pháp, dù đó là Pháp mình đang thực hành hay câu kinh mà mình đang đọc tụng. Điều gì phải đến, hãy để cho nó đến, bởi vì đó là lẽ tự nhiên. Bất luận gì được sanh ra ắt phải hoại diệt. Không thể cưỡng lại sự chết. Kháng cưỡng là đi ngược lại với định luật tự nhiên. Một thái độ tinh thần ngoan cố như vậy sẽ không mang lại lợi ích nào. Đường lối chân chánh là phải can đảm và quả quyết chớ không phải lo âu sợ sệt về cái chết.
Về nơi chốn để trau dồi tâm, càng hoang vu – đầy thú dữ và cọp – càng tốt. Ngài dạy: Ở những nơi như vậy, tâm sẽ phát triển tốt đẹp trong thiền định và thiền trí. Những con cọp dữ sẽ giúp in sâu Giáo Pháp vào tâm, bởi vì khi người không tin Đức Phật và không sợ Ngài mà lại tin cọp và sợ cọp thì hiểm họa cọp cũng là điều tốt. Lòng kinh sợ cọp, hình ảnh của mình bị cọp xé ăn có khả năng đem tâm về Giáo Pháp. Biết rằng không còn cách nào khác để tự giúp mình, tâm như vậy sẽ chăm chú gom vào đề mục thiền hoặc vào một đoạn kinh tụng cho đến khi an trụ trong Giáo Pháp. Khi ấy nó sẽ thấy Giáo Pháp vô cùng màu nhiệm, và tin nơi Đức Phật. Trong giờ phút nguy kịch đó, tâm an trụ phát triển mạnh đến mức độ mà, cho đến lúc ấy, chưa bao giờ được phát triển như vậy. Trí tuệ hay tuệ minh sát mà chưa từng phát triển bao giờ cũng sẽ phát sanh. Một cái tâm buông lơi thả lỏng, không được kềm chế và trau dồi, ắt chậm chạp lười biếng và dễ trở thành nạn nhân của những ảnh hưởng xấu xa tội lỗi. Rồi nó tích tụ ô nhiễm, chỉ làm nó chìm nặng thêm. Dù sao cọp sẽ giúp nhấc bớt hộ gánh nặng lên, làm vơi đi phần nào trọng lượng trên vai người nhát gan, và người ấy sẽ không còn run sợ khi đi đâu hay ở nơi nào.
Bất luận nơi nào mà ô nhiễm sợ thì hành giả được khuyên nên đến đó. Nơi nào mà ô nhiễm không sợ, hành giả nên tránh xa. Quy hàng những lời thỏ thẻ xúi giục của ô nhiễm là lợi dưỡng, buông xuôi, tự lăn trôi theo ô nhiễm, không tạo nên điều gì có lợi. Nó chỉ đưa đến sự sụp đổ về tinh thần làm cho hành giả mù quáng trước mọi khái niệm về tội lỗi và phước lành.
Ngài Phra Acharn Mun thường lưu tâm các đệ tử rằng một nơi mà người ta không cần phải cẩn thận đề phòng sẽ không giúp phát triển tâm. Trái lại, nơi nào mà hành giả luôn luôn phải thận trọng giữa những hiểm nguy luôn rình rập thì cuối cùng lại là một hỗ trợ quan trọng. Ở một nơi nguy hiểm như vậy thì tâm không dám lìa khỏi niệm, và đó là cách để tinh tấn. Trong những lúc nguy kịch, hãy giữ Giáo Pháp chặt trong tâm vì đó là nơi mà Giáo Pháp tồn tại, đừng buông lỏng cho tâm lẩn ra ngoài. Khi đó, năng lực của ý chí và kế tiếp là tình trạng an toàn sẽ đến. Cái chết không thể đến khi giờ khắc của nó chưa đến, và thay vì cái chết mà ta tưởng tượng và dự đoán, năng lực của ý chí và can đảm sẽ đến một cách bất ngờ. Chính sự rèn luyện cố bám vững chắc vào Giáo Pháp bên trong và không để những ảnh hưởng bên ngoài chi phối sẽ dẫn hành giả đến thành tựu mục tiêu cuối cùng của mình.
Tự mãn hay thối chí nản lòng thì không thể thâu hoạch tiến bộ đáng kể nào. Hành giả phải trau dồi thái độ “sống với Giáo Pháp” và “chết với Giáo Pháp” bằng mọi cách, và chỉ có thế mới đảm bảo tiến bộ. Thái độ này sẽ giúp hành giả đương đầu với mọi hiểm nguy trong cuộc sống giữa những nơi hoang vu đáng sợ. Tình trạng càng nguy kịch, tâm càng phải bám chặt vào điểm Giáo Pháp đã chọn. Trước một cái tâm dũng mãnh và cương quyết như vậy, kẻ tấn công sẽ tháo lui, dù là một con cọp, con rắn hay một con voi. Hành giả thậm chí còn có thể tiến thẳng tới nó. Thái độ của hành giả đối với nó căn cứ trên nền tảng từ bi, vốn có một ảnh hưởng huyền diệu bí ẩn nhưng thật sự và rõ ràng thâm sâu. Tâm của hành giả được khoác lên bộ y Giáo Pháp, còn tâm của thú thì không có. Do vậy, tâm hành giả có sức mạnh hơn tâm thú. Thực ra, loài thú không biết điều ấy, nhưng có thể cảm nhận được. Đó là oai lực của Giáo Pháp, bảo vệ hành giả trong khi làm mềm dịu hay vô hiệu hóa tính hung dữ của thú. Đó là sức mạnh huyền diệu của tâm, vốn tự nó hiển hiện, nhưng đối với người mà tâm chưa được trau dồi đến mức độ đó thì ắt khó nhận thức được.
Riêng về khía cạnh này của Giáo Pháp, nó sẽ luôn luôn bí ẩn với người nghiên cứu ở tầng lớp trí thức trong những cơ quan khác nhau, dù là nghiên cứu rộng rãi đến đâu. Khi Giáo Pháp hiển lộ rõ trong tâm, tâm mới có thể hiểu Giáo Pháp là gì, tùy theo trình độ hoặc chiều sâu của Giáo Pháp được hiển lộ. Khi tâm và Giáo Pháp hoàn toàn hợp nhất, không còn gì nữa để hoài nghi. Cả hai đều vi tế và bí ẩn như nhau. Và ở mức độ hoàn toàn hợp nhất này, ta có thể nói rằng tâm là Giáo Pháp và Giáo Pháp là tâm. Giờ đây không còn mâu thuẫn nữa, bởi vì ô nhiễm (kẻ gây mâu thuẫn) đã bị loại trừ.
Cái tâm quý báu vô giá kia hình như không còn giá trị gì cả khi đã trở thành dụng cụ của ô nhiễm, bị ô nhiễm thống trị đến độ mất hết giá trị. Một cái tâm sống trong tình trạng thoái hóa như thế mà không cố gắng sửa sai hay tự thanh lọc sẽ còn phải trải qua cả trăm, cả ngàn lần sanh tử tử sanh vô ích. Không học bài học nào, không cải thiện và không thành tựu tiến bộ. Cũng như người thay ra một cái áo dơ, cũ, xấu, để mặc vào một cái khác cũng dơ, cũ, xấu như vậy. Người ấy có thể thay đổi cả ngàn lần như thế ấy nhưng rốt cùng, cái áo thứ một ngàn cũng cũ, xấu và dơ như cái đầu tiên. Nhưng khi có một người khác cởi bỏ áo dơ để mặc vào một áo mới hơn, sạch hơn thì anh ta trông sạch sẽ hơn ngay từ lần thay áo đầu tiên. Đó là bài học đối với người muốn thay đổi y phục cho cái tâm của mình, nhằm cải tiến và tăng trưởng phẩm giá. Đó là nhiệm vụ có nhiều ý nghĩa nhất của mọi người, từ quá khứ vô thủy đến vị lai vô chung cho đến khi tâm được nâng cao đến mức tuyệt đỉnh, không còn cần phải thay đổi y áo nữa để thanh lọc. Điều này ám chỉ Đức Phật và các vị Thánh Đệ Tử của Ngài, nơi nương tựa của tất cả những người đức hạnh thanh cao, và thậm chí là cả những người hư hỏng thấp hèn mà cuối cùng vẫn không lánh xa hay lãng quên Tam Bảo. Có thể so sánh với một đại gia đình đông con nhiều cháu. Vài người tốt, vài người xấu, nhưng tất cả đều một lòng kính mến ông bà, cha mẹ.
^^^
38. Sống thiếu thốn dựa trên Giáo Pháp là con đường giải thoát
Đó là lối thực hành mà Ngài Phra Acharn Mun khuyên dạy. Những ai tôn kính tuân hành theo lời dạy đều sẽ thành đạt mức độ định và tuệ như nhau trong tâm, cộng thêm cách sống các môn đệ Ngài đã thừa hưởng nơi Ngài và truyền lại cho đệ tử của họ. Tất cả cho thấy một sự thật đầy ý nghĩa là giáo huấn của Đức Phật vẫn còn khả năng hướng dẫn đến các tầng Thánh Đạo và Thánh Quả như thủa nào.
Về những vật dụng cần thiết cho đời sống thì nói đúng ra, phương pháp thực hành của Ngài Acharn có thể được gọi là lối sống kham khổ. Thức ăn không đủ, nơi trú ẩn nghèo nàn, y phục thiếu thốn, còn những vật dụng khẩn thiết khác cũng đều thiếu thốn ít nhiều. Những người đã quen sống tiện nghi, xa hoa và giải trí chắc chắn sẽ thấy đây là lối sống khốn cùng, khổ cực ngoài sức tưởng tượng. Rõ ràng là không có chi để thỏa thích trong lối sống thiếu thốn và hạn chế như vậy. Tuy vậy, đối với Ngài Acharn Mun, lối sống này đã được tự nguyện chấp nhận và được Giáo Pháp hỗ trợ. Mỗi giây phút đau khổ và chịu đựng đều không ngoài Giáo Pháp, vì đó là tự rèn luyện dựa trên Giáo Pháp. Những gì mà người khác cho là khốn cùng cơ cực lại trở thành thú vị và thoải mái với những vị mà đời sống được Giáo Pháp hướng dẫn và đã tự ý chấp nhận mọi thiếu thốn ấy.
Lối thực hành này cũng có thể được gọi là thực hành từ-bỏ-mình, tự phủ nhận buông xả cái “Ta.” Dù ngồi, đứng, đi hay nằm, dù ăn uống hay làm gì khác, dù di chuyển đến nơi nào hay lưu lại bất cứ đâu, luôn luôn phủ nhận mọi tự ngã ham muốn hưởng thụ và lợi dưỡng trong hành động ấy. Không khoan nhượng cho những lời van xin cho thân thể hay những tiếng than khóc để được thoải mái và tiện nghi. Đôi khi phải nhịn ăn trong suốt nhiều ngày để tinh tấn không gián đoạn. Lẽ dĩ nhiên là có đau khổ trong khoảng thời gian chịu đựng, nhưng cũng có tâm chú niệm nhắc nhở hành giả rằng đây là chịu đựng vì lợi ích của việc hành thiền.
Lối thực hành này dĩ nhiên là thích hợp đối với vị hành giả đã dứt khoát áp dụng pháp khổ hạnh này. Đối với họ, ăn mỗi ngày có thể thêm sức khỏe cho thân, nhưng làm cho tâm suy nhược rồi trở thành dã dượi hôn trầm. Do vậy, cách duy nhất là hy sinh sức khỏe của thân một chút bằng cách nhịn ăn một thời gian. Thời gian nhịn ăn như vậy tùy sức khỏe và sức chịu đựng của thân, và trong lúc đó hành giả theo dõi tâm mình xem nó thay đổi thế nào. Cả hai điều đó sẽ giúp quyết định mức độ vừa phải. Trong vài trường hợp, một đợt nhịn ăn có thể kéo dài nhiều ngày mà vẫn nằm trong khả năng chịu đựng của thân và tâm, và không ảnh hưởng đến điểm cân bằng. Chừng đó, hạnh kiên nhẫn chịu đựng phản ứng chống lại tình trạng đau khổ. Sức chịu đựng này được năng lực của ý chí tăng cường, và năng lực của ý chí được thúc giục do sự quyết tâm hoàn thành chấm dứt mọi tình trạng đau khổ.
Trong thời gian nhịn ăn, vị hành giả quan sát tình trạng của chính mình, có thể biết pháp này có thích hợp với mình không. Có vài người, nhịn đói càng lâu tâm càng thêm quả cảm và trong sáng, mạnh mẽ hơn và và năng động hơn.
Trong khi hành thiền, quả lắc của thời gian ngừng hẳn – ngày và đêm tiêu tan trong ánh sáng chói lòa của Giáo Pháp, đói và mệt hoàn toàn tan biến. Tâm thâm sâu an trụ trong Giáo Pháp. Đây là lúc mà hành giả phải tận dụng cơ hội của mình khi các ô nhiễm như hôn trầm và phóng dật đang ngủ. Cơ hội ngàn năm có một mà hành giả có thể trèo lên lưng các ô nhiễm ấy, trồng ách vào cổ chúng thì không nên do dự. Trì hoãn có nghĩa là thêm rủi ro và có thể là một mất mát to lớn. Một khi chúng được phép trỗi dậy thì phần chiến bại trở về hành giả. Hành giả có thể trở thành một con voi bị thuần hóa, hoàn toàn nằm dưới quyền điều khiển của cái móc sắt của người nài quản tượng, bởi vì đã từ lâu tâm chúng ta bị quyền lực của ô nhiễm thống trị như voi bị áp phục dưới cây móc sắt của người nài. Tâm sợ cây móc sắt như trẻ con bị phỏng sợ lửa. Trong trường hợp này chỉ có Giáo Pháp có thể phản ứng chống lại cái móc sắt ô nhiễm.
Tuy nhiên, theo quan niệm của thế gian, tâm và ô nhiễm đã trở thành đôi bạn đồng hành không thể rời nhau. Việc này tạo nên hai hạng người: một hạng dựa trên Giáo Pháp, chiến đấu để có được cuộc sống độc lập, không tùy thuộc vào cái móc sắt của người nài; hạng kia, dưới sự hướng dẫn của ô nhiễm, phải âu yếm chiều chuộng và phục tùng tuân hành theo lệnh chúng. Lối sống của hạng người thứ nhì này đưa đến hậu quả hiển nhiên cho họ và cho kẻ khác, vì năng lực của ô nhiễm tích tụ trong tâm sớm muộn gì cũng được buông lỏng thành lời nói hay việc làm. Tên nài voi bổ cái móc sắt xuống càng mạnh thì từ cái tâm bị tổn thương, máu đau khổ tuôn ra càng nhiều. Vì lý do ấy, vị hành giả đã nhận thức sự thật này một mực nhất quyết chiến đấu để tự giải thoát. Đói ăn và nhiều hoàn cảnh thiếu thốn khác trong thời gian chiến đấu đều được tự nguyện chấp nhận. Cả đến cái chết, nếu chết là hậu quả của cuộc chiến, cũng được xem là một hy sinh, đặt mạng sống trên bàn thờ để cúng dường Giáo Pháp. Đối với một cái tâm nhất quyết như thế ấy, Đạo Lộ hẳn là tuyệt đối và không thể đổi chiều.
Ngài Phra Acharn Mun, sau khi Chứng ngộ, nhận thức được rõ ràng sức mạnh của ô nhiễm và năng lực của Giáo Pháp, đã trở về vùng Đông Bắc và đảm nhận việc huấn luyện đệ tử đúng theo Giáo Pháp mà Ngài đã tuần tự thực hành và chứng ngộ. Theo cách ấy, Ngài luôn luôn khuyến khích chư tỳ khưu và sāmaṇera nên cương quyết và vui vẻ tự giải thoát ra khỏi ách nô lệ của ô nhiễm đang tròng vào cổ mình.
^^^
39. Ngũ lực
Trong khi dạy Giáo Pháp, đề tài mà Ngài Acharn Mun thường giới thiệu để khuyến khích đệ tử là Ngũ lực: tín, tấn, niệm, định, tuệ. Ngài giảng giải rằng một hành giả mà tự trang bị với năm pháp Ngũ lực này chỉ có thể tiến bộ và phát triển, không bao giờ thất bại hay thụt lùi, bất cứ đi đâu bất luận lưu ngụ nơi nào. Sau đây là đại ý của những lời Ngài dạy chư vị tỳ khưu, rành mạch và ngay thẳng, cao siêu và đầy khích lệ. Lẽ dĩ nhiên những lời dạy này rất phù hợp với lối sống của Ngài.
“Saddhā (tín) hàm xúc niềm tin, hay lòng tín nhiệm nơi Giáo Huấn mà Đức Phật đã từ bi ban truyền cho thế gian. Phật tử là những người có phước lành được sống trong ánh sáng của Giáo Huấn ấy, nếu chúng ta thành thật và tận tâm trong việc tu tập của ta. Sớm muộn gì chúng ta cũng phải chết, chắc chắn như vậy. Nhưng điều quan trọng không phải là “khi nào ta chết” mà là “chết như thế nào.” Chúng ta có chết trong cảnh chiến bại trước quân thù ô nhiễm không? Có còn bị quấn chặt trong vòng quay của ô nhiễm, nghiệp và quả của nghiệp không? Hay ta sẽ chết mà chấm dứt sự vận hành của vòng quay ấy? Bất luận ở đâu, từ “chiến bại” vẫn không đáng được ưa thích. Trẻ con chơi trò chơi cũng muốn thắng. Chúng không muốn thua cuộc. Và đó phải là bài học cho những tỳ khưu dhūtaṅga. Phải can đảm chuyên cần tận lực để chiến thắng. Nếu vị tỳ khưu thất bại, lối sống của vị ấy là lối sống của kẻ chiến bại. Thái độ và cử chỉ của người ấy chắc chắn là chán nản, trong khi đó khổ đau sầu muộn tràn ngập nặng nề. Không thể mong chờ lợi ích gì từ cái chết như vậy, khi đống khổ đau chồng chất, bao phủ ngập đầu người đang chết, không còn chỗ trống để thở.
“Để theo chân Đức Phật và các Thánh Đệ Tử của Ngài, điều khẩn thiết là ta phải có đức tin, nhiệt thành tín nhiệm nơi Ngài, tin tưởng vào giáo huấn do Ngài ban truyền, tự trang bị cho chúng ta với đức hạnh chuyên cần và nhẫn nại chịu đựng của Ngài, tự bảo vệ chúng ta bằng chánh niệm có oai lực che chở của Ngài, và tuân theo lối thực hành của Ngài. Hãy kiên định trong việc thực hiện nhiệm vụ. Không nên thối chuyển vì thiếu niệm. Hãy tận lực, quyết tâm tạo những nhân mà sẽ trổ quả theo cách Ngài chỉ cho chúng ta. Đó là giáo huấn dành cho bậc trí tuệ. Trí tuệ trong mọi sắc thái theo cách mà Ngài giảng giải. Chúng ta phải trau dồi trí tuệ ấy trong khi nghe, trong khi ăn, uống, trong khi làm bất luận gì, để có thể tránh xa si mê hay vô minh, vốn không tạo nên gì tốt đẹp. Có thể mong chờ gì từ nơi một người si mê - đàn ông, đàn bà hay con nít? Một vị tỳ khưu dhūtaṅga không nên để mình ngập trong vũng lầy si mê, coi mọi vật là đương nhiên. Đó không phải là Con đường Chấm dứt Đau khổ. Đi theo đường lối ấy không bao giờ trở thành người được xem là bậc sa môn (samaṇa), hạng người luôn luôn tự trang bị với trí tuệ.
Đó là những điểm chính trong giáo huấn mà Ngài thường dạy cho các tỳ khưu đệ tử hạnh đầu đà. Giáo huấn mạnh bạo và trực tiếp, dành cho những vị hành giả đã cương quyết xông vào cuộc chiến giữa ô nhiễm và Giáo Pháp, những vị sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách nhằm thành đạt chiến thắng cuối cùng, tức Giải Thoát, Niết Bàn.
^^^
40. Nói với lòng tự tin cam đảm
Một vị Acharn, trước kia là đệ tử cao niên của Ngài Phra Acharn Mun, thuật rằng dưới sự hướng dẫn của Ngài Acharn Mun, một buổi họp của các vị tỳ khưu và sāmaṇera, dù đông đảo thế nào, trông cũng như cuộc họp của các vị đã được tẩy sạch ô nhiễm. Không bao giờ có lời nói hay cử chỉ thiếu kiểm soát. Tất cả đều từ tốn và trầm tĩnh, ở nơi các Ngài cư ngụ cũng như trong buổi họp. Tác phong của các vị này hoàn toàn thanh nhã và rất cảm kích, có thể dễ dàng làm cho người ta nghĩ rằng tất cả đều là những vị A La Hán nếu không nghe những câu hỏi mà các Ngài nêu lên với Ngài Acharn về những kinh nghiệm trong khi hành thiền. Từ những câu mỗi vị nêu lên bạch hỏi Ngài Acharn liên quan đến thiền định và thiền tuệ, ta có thể phỏng đoán mức tiến bộ của các Ngài, từ tuệ giác mức sơ đẳng đến cao cấp.
Dù trong lúc giải đáp thắc mắc hay giảng dạy cho các vị tỳ khưu, Ngài Phra Acharn Mun đều nói một cách rõ ràng, quả quyết và tự tin, đảm bảo cho các vị đệ tử rằng Giáo Pháp mà Ngài dạy là chính Ngài tự mình chứng ngộ chứ không phải là Pháp của người phỏng đoán hay tưởng tượng. Sự đảm bảo không thành lời cho người nghe của Ngài là nếu họ kiên trì nỗ lực theo cách Ngài đã chỉ dạy, một ngày kia họ cũng sẽ có thể chứng ngộ Giáo Pháp như Ngài.
Lời dạy của Ngài thường thay đổi để phù hợp với trình độ thành Đạo của người nghe – những vị từ khưu, sāmaṇera hay thiện tín. Ngài giải thích với nhiều chi tiết để họ dễ nhớ và áp dụng thực hành. Đặc biệt với những người tại gia cư sỹ, Ngài giảng về phương pháp thích hợp với họ, bố thí, trì giới và trau dồi tâm. Ngài dạy rằng ba pháp này là nền tảng để được tái sanh vào cảnh người và cũng là để có được cuộc đời theo Phật Pháp. Mỗi người đều đã tích được ít nhất là một trong ba nhân này trong những kiếp quá khứ, nếu không thì không thể có thân người và tái sanh vào cảnh người.
Bố thí (dāna) là biểu hiện đầu tiên của con người cao thượng, động lòng trắc ẩn xót thương những người hay những con vật thấp kém hơn mình. Có thể bố thí dưới hình thức tiền bạc, hoặc của cải, hoặc bằng cách chỉ bảo hay khuyên dạy những kiến thức tôn giáo, gọi là dhamma dāna, pháp thí. Nơi đây, bố thí (dāna) phải được thể hiện mà không trông mong chờ đợi được đền ơn đáp nghĩa, ngoại trừ được đền đáp bằng chính nghiệp lành mà mình đã tạo, vốn là cái tâm được tác ý bất vụ lợi. Một sắc thái khác của tâm bố thí là khoan dung tha thứ người hành động sai lầm với mình. Người hoan hỷ bố thí (dưới nhiều hình thức khác nhau kể trên), dù diện mạo đẹp xấu thế nào, cũng được mến thương kính mộ trong xã hội. Người ấy được người và trời (devatā, chư thiên trên quả địa cầu và các cảnh trời) quý mến. Dù đi đâu người ấy cũng không ở trong cảnh không được ai cứu giúp. Trong cảnh người, rõ ràng là một người được trang bị với thiện tâm bố thí như vậy có thể được gọi là tự trang sức “theo đúng thời trang tân tiến”, và là niềm vui cho tất cả mọi người. Người giàu sang mà có tính hà tiện cũng còn trông mong một tấm lòng quảng đại bố thí, nói chi đến hạng người không được ai giúp đỡ. Người có thói quen bố thí, nhờ nghiệp lành đã tạo, dù sống trong cảnh giới nào cũng không bao giờ thiếu thốn. Tâm quảng đại bố thí giúp nuôi dưỡng và bảo trì xã hội loài người, làm cho cuộc sống có nhiều ý nghĩa và hứa hẹn. Thiếu lòng quảng đại, thế gian sẽ sớm trở thành hoang vắng và cằn cỗi. Do đó, tấm lòng bố thí quả thật quan trọng cho mình và cho người khác. Nói cách khác, một tâm hồn mà chưa bao giờ được lòng quảng đại bố thí rung động chắc chắn sẽ khô cằn và trở nên sầu muộn, vì không thấm nhuần Giáo Pháp chút nào.
Giới (sīla) là hàng rào bảo vệ đời sống và sở hữu, giúp con người sống an lành và hạnh phúc, vừa là biện pháp ngăn ngừa không để người này làm tổn thương hay chạnh lòng người khác. Đây cũng là một cách khác để trau dồi tâm cao thượng. Một người mà không được một loại hay mức độ đạo đức nào kiềm chế thì cũng giống như ngọn lửa hung tợn tàn phá xã hội mà người ấy đang sống. Khi phần đông mọi người chuyển sang hành động mà không được kiểm chế bới giới, thử tưởng tượng lửa cháy do tội ác và hung bạo có thể thiêu rụi thế gian như thế nào, hủy diệt dân chúng, và làm tiêu tan nhà cửa ruộng đất thế nào! Thế gian có thể phát triển vật chất cho đến khi có thể tự chôn mình dưới đống máy móc thiết bị phục vụ cho tiện nghi vật chất, nhưng cũng có thể tự thiêu vì lãng quên giới luật, điều này có khả năng tạo tia nóng có sức phá hoại tàn khốc hơn sức nóng của nhiều mặt trời hợp lại. Không bao giờ có thể thanh bình an lạc trong một thế gian quý trọng vật chất hơn là giới luật.
Đức Phật, bậc siêu nhân giữa nhân loại được trang bị hoàn toàn với giới luật mà Ngài gọi là trang sức của Ngài. Trang sức này, Ngài từ bi trao truyền lại cho thế gian, nhằm điểm trang và nâng cao phẩm giá của phần tâm linh. Tự chính bản thân tự nhiên của nó, một cái tâm mà rung động dưới năng lực của ô nhiễm, phát tủa ra sức nóng tự thiêu đốt mình và thiêu đốt người khác. Thiếu sự tiết chế của giới luật, hay càng tệ hại hơn, với khuynh hướng xấu xa nhằm dưỡng nuôi và thoa dịu ô nhiễm, lẽ dĩ nhiên, thế gian sẽ sớm thành một hỏa ngục trong đó con người là nạn nhân của thú dữ hay quái vật chính mình tạo ra. Đó là số phận không thể tránh đang chờ đợi thế giới nào cho phép ô nhiễm chi phối mình, ngược lại với thế gian mà thận trọng lưu tâm đến giáo huấn của Đức Phật, những lời dạy đượm từ bi, luôn luôn ban rải những rung động từ ái an lành đến tất cả những ai quan tâm và can đảm đi theo. Người Phật tử phải cân nhắc sự khác biệt này để có thể làm suy giảm năng lực của ô nhiễm, nếu chưa thể diệt hẳn. Giới luật cũng giống như thuốc để trị một chứng bệnh truyền nhiễm và kinh niên. Ít nhất trong vài trường hợp, món thuốc này có thể chặn đứng bệnh, hay may ra trong những trường hợp khác, có thể hoàn toàn chữa trị.
Chính tác giả cũng lấy làm cảm kích và thích thú lắng nghe bài Pháp về giới luật này, và sau khi nghe, càng cương quyết nghiêm trì những giới của người cư sỹ, quên hẳn rằng mình đã thọ giới tỳ khưu, vốn rộng rãi bao quát hơn. Lòng hoan hỷ vui sướng tràn ngập. Điều này cũng hé lộ một sự thật ở khía cạnh khác – người đã bị thôi miên bằng lời khuyến dụ để hành ác cũng sẽ nhiệt thành tuân hành theo như vậy. Vì lẽ ấy, tư tưởng của con người cần phải luôn luôn được con mắt của niệm và tuệ theo dõi tỉ mỉ để kịp thời phát hiện bản chất của nó và đối phó một cách phù hợp.
Trau dồi tâm (bhāvanā, thiền tập) là phương pháp luyện tập tâm để chấp nhận lẽ phải của Giáo Pháp, để hiểu biết phương pháp đối phó phù hợp với nó và các hoàn cảnh khác nhau, và để ngăn ngừa không để tâm lâm vào tình trạng vô kỷ luật và khuấy động chạy loạn. Nhờ phương pháp trau dồi này, một cái tâm chưa được rèn luyện có thể lắng dịu và thuần hóa để cho ta kiểm soát, làm cho chính nó được thanh bình an lạc. Một cái tâm chưa được rèn luyện cũng tựa hồ như ngựa hoang hay một loài thú hoang nào khác chưa được thuần hóa, không thể làm việc lợi ích cho chủ.
Trau dồi tâm chính xác là thế này: là phát triển hay nâng cao phẩm giá chẳng cho gì khác hơn là chính cái tâm của mình. Là giúp cho tâm có khả năng hoạt động đúng đắn trong mọi việc mà nó được đặt vào, dù đó là việc thô hay tế, nhỏ hay lớn, bên trong hay bên ngoài. Người dấn thân vào con đường trau dồi tâm cũng có khuynh hướng thận trọng cân nhắc một cách tỉ mỉ và điềm tĩnh trước khi làm việc gì. Điều này giúp tránh khỏi nhầm lẫn và hư hao, tránh hiểm họa và những hậu quả bất lợi có thể đến với ta và với kẻ khác. Tâm được trau dồi và phát triển, do đó, có thể gặt hái nhiều lợi ích trong hiện tại và tương lai.
Cái gì cần làm, cần phải làm tốt đẹp – không cẩu thả hoặc nửa vời, mà phải tận tình viên mãn. Trau dồi tâm, vốn là khả năng tự chế ngự mình cho phù hợp với định luật nhân quả và công bằng – cũng có nghĩa là tự trị. Trong khi tuân hành theo một định luật như vậy, không có thành kiến hoặc tình cảm riêng tư như ưa thích hay ghét bỏ xen lẫn vào việc xét đoán của một người. Có nhiều người sa ngã theo thành kiến cá nhân, hiểu biết sai lầm và về sau phải ăn năn hối tiếc những quyết định của mình. Càng sớm quay về tự kiểm soát, tự quản trị, nỗi niềm hối tiếc của họ càng ít cay đắng. Vì thế, pháp trau dồi tâm có thể giúp phản ứng chống lại thành kiến và quyết định hấp tấp của chính mình, nhờ đó giữ mình luôn vững vàng trên Chánh Đạo. Pháp này không tránh khỏi những khó khăn của nó, vì đó chính là tự kiểm soát, tự khép cái tâm loạn động như con khỉ vào kỷ cương. Đó là đối nghịch dữ dội giữa bản chất tự nhiên của con khỉ và tâm.
Trau dồi tâm không phải gì khác hơn là tự quan sát tâm của mình. Đó là dùng chú niệm (sati) quan sát cái tâm chập chờn và luôn luôn nhảy nhót. Để thiết lập niệm, ta dùng một đề tài quán niệm, một bài kinh thường đọc tụng nào đó. Những chữ như Buddho, Dhammo, Sangho (Phật, Pháp, Tăng) thường được dùng như từ để niệm; những bộ phận trong cơ thể như tóc, lông, móng, răng hay da; hoặc suy niệm về sự chết. Những chữ để niệm dùng riêng từng chữ hay từng nhóm, bằng cách đọc xuôi rồi đọc ngược. Nơi đây phải hết sức cố gắng an trụ tâm vào đề mục đã chọn (do đó thành ngữ “tận lực chuyên cần” để chỉ tình trạng cố gắng liên tục và không gián đoạn ấy).
Khi tâm có thể an trụ vào đề mục mà bản chất tự nhiên không gây ảnh hưởng có hại đến một cái tâm chưa được rèn luyện, hành giả cảm thấy vô cùng thoải mái trong trạng thái thanh bình an lạc. Khi mức độ thoải mái an lạc đã đủ để giữ vững tâm trong trạng thái an trụ thì đề mục được dùng trước kia để gom tâm không cần thiết nữa, vì đến đây tâm có đủ khả năng tự mình duy trì và gom rút vào trạng thái tĩnh lặng bên trong, nhập định. Sau một thời gian, tâm sẽ trở lại mức độ cũ, xuất định. Hành giả được khuyên lặp đi lặp lại tiến trình này nhằm làm cho tâm thường an lạc, cho đến khi cảm thấy rằng mình ở trong “nhà của mình”, và có thể ra vào trạng thái ấy như ý muốn. Đến mức thành tựu này, cái tâm mà trước kia là nạn nhân của những ảnh hưởng xấu xa tội lỗi có thể dần dần tách ra khỏi đó và sẽ tự ý đảm trách nhiệm vụ của mình. Chừng đó, để tâm vào khuôn khổ sẽ cần ít sự ép buộc hơn.
^^^
41. Trau dồi tâm là chữa bệnh tâm loạn
Có thể có một số độc giả (nhất là thiện tín cư sỹ tại gia) nản lòng khi phải tu tập theo phương pháp trau dồi tâm. Người cư sỹ thường than phiền rằng họ không đủ thì giờ để kiếm tiền nuôi dưỡng gia đình, rõ ràng là không thể tìm được thời gian hành thiền mà không tổn hại đến bổn phận kế cận nhất theo cách này hay cách khác. Và họ mãn nguyện với lối giải thích để tự an ủi ấy. Nói thật thì những lời than phiền như vậy của người cư sỹ thông thường gây thiệt hại và suy thoái cho họ, trừ khi họ sửa sai thái độ.
Trau dồi tâm là phương pháp chữa trị cho những khổ đau tinh thần, cũng như những phương pháp chữa trị cho những khổ đau vật chất được áp dụng trong thế gian. Lúc trời nóng thì ta tắm, lúc trời trở lạnh ta đắp chăn. Đói thì ăn, khát thì uống, có bệnh thì dùng thuốc. Đó là phương pháp của người thế gian để chữa trị những đau khổ và khó chịu của cơ thể. Người lâm vào hoàn cảnh trên không chần chừ, cũng không viện cớ rằng trời nóng hay lạnh quá, hoặc đang quá bận phải làm chuyện gì khác nên không quan tâm tới những đau khổ hay những khó chịu ấy. Điều đó là giống nhau cho tất cả, không chỉ riêng hạng người nào. Kể cả loài thú cũng như vậy, và ta có thể thấy chúng chiến đấu quyết liệt thế nào để sống sót. Pháp trau dồi tâm cũng vậy, điểm khác biệt duy nhất là pháp này nhằm vào tâm, vốn là căn nguyên của mọi tiến bộ và suy thoái, và vì đó là căn nguyên của mọi tiến bộ và suy thoái, tất cả mọi người đều cần phải lưu tâm đến.
Tâm của người thế gian có đặc tính kỳ quái. Nó có khuynh hướng đưa vòi ra (như con mực), đeo níu vào tất cả những gì có thể với tới và quyết định là cái đó có liên quan đến nó hay thuộc về nó. Cái đó đúng hay sai, tốt hay xấu, có lợi hay có hại, tâm không mấy quan tâm, và càng ít để ý xem mình có đủ sức đối phó với những cái đó không. Lắm khi những gánh nặng mà mình tự nguyện gánh vác ấy trở thành những “bài tập về nhà” làm ta kiệt sức, mất luôn cả thời giờ ăn và ngủ. Hoạt động của một cái tâm khao khát hình như không có giới hạn, không ngừng nghỉ. Khi thân kiệt sức vì gánh nặng nó phải mang, nó khóc than xin được nghỉ, và sớm muộn gì nó cũng cần phải nghỉ. Nhưng tâm thì không được may mắn như thế. Tâm luôn bị chính tình trạng đưa vòi ra và với tới của nó quấy rầy, cho đến khi ngủ nghỉ nó vẫn thao thức và bồn chồn xao xuyến trong các biểu tượng của giấc mơ. Không có phương pháp tiết độ sử dụng như cái phanh. Một cái tâm như thế tự mình càng chồng chất thêm đau khổ.
Tâm có thể được gọi là “sanh ra để làm chiến binh”, hay “chiến sỹ liều lĩnh.” Trừ phi thái độ của nó được Giáo Pháp sửa sai, cuộc chiến chắc chắn sẽ tiếp tục kéo dài mà không cần tính đến hậu quả, hay quan trọng hơn, một cách vô vọng, từ kiếp này đến kiếp khác. Không có hy vọng đặt xuống gánh nặng mà nó tự nguyện gánh vác. Không có điểm nào của tâm được Giáo Pháp kiểm soát. Tâm có thể thành công trong việc tích trữ của cải, nhưng khi còn chưa nương tựa nơi Giáo Pháp thì những đống của kia chỉ là những đống đau khổ, không bao giờ là kho tàng của hạnh phúc và an lạc.
Tất cả những bậc trí tuệ đều đồng ý là Giáo Pháp bảo vệ cả của cải của con người cũng như bảo vệ tâm. Tâm của con người càng tuân hành theo đúng Giáo Pháp thì của cải của họ, nhỏ hay lớn, càng đem lại hạnh phúc cho họ. Không có Giáo Pháp, dù tiền của chồng chất như núi cao, vẫn không đủ tạo hạnh phúc cho người làm chủ nó. Trong thực tế, tài sản vật chất chỉ là “phương tiện” hay “dụng cụ” tạo hạnh phúc, đối với bậc trí tuệ. Chính tự nó không thể tạo bất cứ hạnh phúc nào. Tâm thiếu Giáo Pháp sẽ không có khả năng thu được hạnh phúc nào từ kho tàng vật chất. Trái lại, đối với tâm được đào luyện thích hợp và đầy đủ thì không đau khổ, không khó nhọc, không trở ngại hay sự giày vò nào có thể gây ảnh hưởng bất lợi đến. Tâm có thể được rèn luyện đầy đủ đến mức thánh thiện và có thể giữ vững trạng thái trầm tĩnh, không lay chuyển, không bị khuấy động.
Tâm luôn luôn hoạt động và không ngừng lo âu cả ngày lẫn đêm, năm này qua năm khác. Nếu đó là một cỗ máy, một chiếc xe ô tô chẳng hạn, nó đã trở thành một đống sắt vụn từ lâu. Không thể hy vọng chữa một cái máy đã chịu tải quá nặng như tâm. Theo một nghĩa, tâm của con người cũng giống như một cái máy – cần phải được bảo trì, sửa chữa và bảo vệ khỏi hiểm họa, và không gì có thể làm các nhiệm vụ ấy tốt đẹp hơn là pháp trau dồi tâm. Đã nhận thức chân lý này, người có trí tuệ sẽ không lãng quên việc chăm sóc tâm mình như chăm lo bảo vệ kho báu quý giá nhất trên đời.
Sức khỏe tâm linh không kém phần quan trọng so với sức khỏe của cơ thể vật chất. Để bảo tồn và làm cho nó thăng tiến, người có trí phải biết tình trạng sinh hoạt của chính tâm mình – biết những suy nghĩ và những cảm xúc của nó – phân tích rõ ràng điều lợi ích và điều bất lợi. Suy nghĩ và cảm xúc xấu ác làm hại sức khỏe, làm suy giảm năng lực của tâm, trong khi suy nghĩ và cảm xúc có lợi tăng cường sức của thân và tâm nhờ ảnh hưởng an lành và thanh lọc của nó. Ta cũng phải suy niệm về bản chất tự nhiên của thân này. Với thời gian, ta có tin được là có cái gì mãi mãi xinh tươi và mới mẻ, hay chỉ là dấu hiệu thoái hóa và suy giảm tự biểu hiện rõ ràng? Ta có nên an tâm mãn nguyện với nó không, hay phải luôn sẵn sàng làm giảm thiểu ảnh hưởng của nó trong tâm? Ăn năn hối tiếc lúc lìa đời không lợi ích gì!
Đây là một ví dụ của việc trau dồi tâm, và trên thực tế là tự cảnh cáo, tự chỉ bảo, và tự quan sát, phát hiện lỗi và khuyết điểm của mình để sửa chữa. Áp dụng phương pháp này lúc thiền tọa, hay trong bất luận oai nghi nào khác càng thường xuyên càng tốt, tâm sẽ lắng dịu và không bị sự tự cao (về tuổi trẻ, sức khỏe và của cuộc sống) đưa đi mất. Trong khi chứng nghiệm hạnh phúc thanh bình an lạc như thế, tâm ngưng việc tự hủy hoại với nỗi đau khổ chính mình đã tự nguyện gánh vác. Hành giả cũng trau dồi hạnh tiết chế trong lối sống và trong công việc. Những nguyên nhân làm hư hỏng đời sống tinh thần (như cờ bạc, rượu chè, chơi bời, hút xách.v.v.) hành giả đều tự ý tránh xa.
Có thể mô tả nhiều lợi ích khác nữa nhờ pháp trau dồi tâm, nhưng thời Pháp này được giảng cho thiện tín cư sỹ nên Ngài Acharn không mô tả chi tiết như khi dạy các đệ tử tỳ khưu. Những gì được trình bày trên trang giấy này đã được tự ý chọn lọc và trích lược. Nếu có lời chỉ trích xin chuyển tới người viết, vì Ngài Acharn không biết gì về việc này.
Được biết rằng Ngài Acharn chỉ đề cập đến những pháp cao siêu khi dạy một nhóm đệ tử thân cận. Những gì được viết ra đây là tài liệu do một số đệ tử đã được Ngài hướng dẫn trong một thời gian cung cấp. Sách được biên soạn nhằm giúp ích phần nào số người quan tâm đến mảng này của Phật Giáo, và khích lệ họ thực hành theo phương pháp này, xuất sắc và duy nhất thời bấy giờ. Phương pháp thực hành của Ngài Acharn là của người chiến sỹ cương quyết không thối chuyển, với lòng quả cảm bất khuất đương đầu với mọi trở ngại, trong mọi hoàn cảnh. Hình như trong lối thực hành dhūtaṅga cũng như những pháp hành khác, những vị đã được Ngài hướng dẫn và đào luyện, không vị nào được vững vàng cương quyết được như Ngài. Lối thực hành của Ngài và sự chứng đắc những thành tựu nội tâm, quả thật trong thời hiện đại không ai bằng.
^^^
42. Long vương và chư thiên viếng thăm
Trong khi lưu ngụ trên và chung quanh vùng núi của tỉnh Udorn Thani và Nong Khai, thỉnh thoảng có những vị trời ở quả địa cầu và những vị từ cảnh trời khác đến thăm viếng và nghe Pháp. Mỗi tháng họ đến khoảng một hay hai lần, không được thường xuyên như ở Chiengmai.
Trước kia, trong thời gian hành Đạo ráo riết, Ngài ở trong vùng núi của Thái Lan, về phía tây thành phố Luang Phra Bang của vương quốc Lào. Ngài Acharn thuật rằng dưới chân núi có một thị trấn rất đông các vị long vương (nāga). Không phải như chư thiên, thường nêu lên nhiều câu hỏi, chư vị thần rắn có ít thắc mắc. Nhưng cả hai đều hoan hỷ và thích thú nghe giảng Giáo Pháp như nhau. Trong lúc Ngài Acharn lưu ngụ tại đó hầu như mỗi ngày đều có Long vương, chúa thần rắn đến viếng, thường đến với một nhóm nhỏ tùy tùng, trừ những trường hợp đặc biệt thì có đông đảo những vị đi theo. Và khi đến đông như vậy, họ thông báo trước cho Ngài biết.
Các vị thần rắn (nāga) thích đến vào lúc đêm muộn, khoảng mười giờ. Có lẽ vì nơi Ngài ở cách xa làng và vì vậy rất yên tĩnh. Ở các nơi khác họ thường đến muộn hơn.
Long Vương chúa lấy làm cảm phục Ngài Phra Acharn và cung thỉnh Ngài ở lại càng lâu càng tốt để giúp đỡ chư vị thần rắn. Long vương chúa thường gửi người của mình (chư vị thần rắn) đến canh gác và bảo vệ Ngài. Họ không dám lại quá gần mà lễ độ ở xa xa để có thể bao quát toàn vùng.
Chư thiên thì thích đến muộn hơn các vị thần rắn, từ nửa đêm đến một hay hai giờ sáng, thường như vậy khi địa điểm ở xa làng mạc. Chỉ có một nhóm nhỏ đến sớm hơn giờ đó.
^^^
43. Pháp hành thường nhật vào tuổi trung tuần - Thuyết giảng cho những vị khách vô hình
Thường ngày, sau khi độ thực vào buổi sáng, Ngài Acharn bắt đầu thiền hành cho đến khoảng giữa trưa. Ngài nghỉ trong một thời gian ngắn rồi bắt đầu thiền tọa trong một tiếng rưỡi, và trở lại thiền hành. Vào lúc bốn giờ chiều, Ngài quét sân chùa hay nơi đang ngụ. Quét xong, Ngài đi tắm và tiếp tục thiền hành đến tám hay chín giờ tối, rồi ngồi thiền trở lại. Nếu vào mùa khô hoặc trong những ngày không mưa, Ngài tiếp tục đi kinh hành đến khuya, trước khi đi nghỉ trên chõng hay phản dùng làm nơi nghỉ của Ngài. Nếu lúc đó đã quá khuya thì Ngài đi nghỉ ngay, nhưng thông thường Ngài đi ngủ vào lúc mười một giờ đêm và thức dậy khoảng ba giờ sáng.
Hôm nào có một nhóm chư thiên đến để nghe giảng Pháp, Ngài được thông báo vào buổi chiều. Ngài đi nghỉ sớm nếu họ đến rất muộn, hoặc Ngài thức để chờ nếu họ đến khoảng nửa đêm. Đôi khi, ở một vài nơi, cả nhóm chư thiên trên quả địa cầu và nhóm những vị đến từ một cảnh trời khác cùng đến nghe Pháp trong một đêm, Ngài Acharn thuyết giảng một thời ngắn cho nhóm đến trước, giải đáp thắc mắc quan trọng và nói với họ rằng có một nhóm khác sắp đến. Nhóm đầu tiên này cung kính giã từ và nhóm kia thế chỗ.
Các thời Pháp thuyết giảng cho những nhóm chư thiên khác nhau này thường dựa trên đề tài Giáo Pháp xuất hiện tới Ngài khi Ngài suy ngẫm xem cần giảng gì. Cũng có khi một vị lãnh đạo của nhóm tỏ ý muốn nghe về một khía cạnh đặc biệt nào của Giáo Pháp, Ngài suy niệm một lúc rồi thuyết giảng cho họ nghe như ý nguyện. Thỉnh thoảng, Ngài phải yêu cầu họ giải thích thêm về chủ đề họ muốn nghe vì thuật ngữ họ dùng khác với thuật ngữ mà Ngài biết. Có khi một nhóm chư thiên muốn nghe về một bài kinh mà Ngài cũng biết tên, nhưng khi Ngài bắt đầu giảng thì hóa ra là bài kinh khác hẳn. Trong trường hợp như vậy thì họ xin ngưng và nói Ngài rõ.
Mặc dù lưu ngụ ở những nơi hoang vắng, xa dân cư, Ngài Acharn vẫn thường bận tiếp đón và giảng dạy những vị khách vô hình – chư thiên trên quả địa cầu, chư thiên ở các cảnh trời khác, và chư vị thần rắn (nāga) – có khi nhiều nhóm khác nhau trong một đêm. Trong trường hợp đông khách như vậy, Ngài phải lên lịch cho họ. Hiếm có đêm mà không có nhóm khách nào đến thăm. Khi ở gần làng hay gần thị trấn thì có đông người hơn, và Ngài tiếp họ vào buổi chiều hoặc lúc tối. Rồi Ngài dạy chư vị tỳ khưu và sāmaṇera đệ tử đã theo Ngài để được hướng dẫn và dạy dỗ.
^^^
44. Những thời Pháp cho người và chư thiên - So sánh khả năng lĩnh hội
Về phương diện thuyết giảng, Ngài Acharn nói rằng có sự khác biệt đáng kể giữa người và chư thiên. Các vị Trời hình như có khả năng lĩnh hội giáo huấn dễ dàng hơn người. Trước mặt vị thầy, họ cũng tỏ ra tôn kính sâu đậm hơn. Không bao giờ có vị nào sinh tâm bất thiện đối với Ngài. Mỗi cử chỉ của họ đều thật thanh nhã, dễ chịu. Dù lúc đến, lúc thính Pháp hay khi ra đi, bao giờ họ cũng yên lặng, trầm tĩnh, khoan thai và dịu hiền.
Mỉa mai thay, thuyết Pháp cho người trong cảnh người nghe, đôi khi trở thành khó khăn, cho cả Ngài và người nghe. Dù lặp đi lặp lại và giảng bằng nhiều cách khác nhau, họ vẫn lãnh hội rất ít. Và ngoài tình trạng kém khả năng lãnh hội, trong vài trường hợp, họ còn tỏ ra xem thường và đôi khi phê bình chỉ trích.
“Thời Pháp này nói gì? Tôi không hiểu đầu đuôi gì cả”, họ nghĩ vậy, “Tôi biết một vị tỳ khưu khác còn giảng hay hơn vị này nhiều.”
Có những người khác tự kiêu, tự so sánh mình với Ngài, “Trước kia tôi hành còn hơn như vậy, hơn vậy nhiều”, họ nghĩ như thế. “Thường ngày trong khi tôi giảng Pháp, người nghe cười đến đau bụng thôi. Không bao giờ có ai buồn ngủ! Trong những thời Pháp vấn đáp (có hai vị tỳ khưu luân phiên, vị này hỏi vị kia giải đáp, rồi vị kia vấn vị này đáp) còn vui hơn nữa. Thính giả của chúng tôi không ngừng vui thích hả hê cười từ đầu chí cuối.”
Và cũng có người nghĩ, “Người ta nói rằng Ngài Acharn có thể đọc được tâm của kẻ khác. Tại sao Ngài không biết ta đang nghĩ gì ngay trong giờ phút này? Nếu biết, ắt Ngài đã bảo rằng nghĩ như vậy là sai, có vậy ta mới tin chắc rằng Ngài có thể đọc tâm của người khác.”
Càng tệ hại hơn, vài người đến đây để tìm lỗi Ngài mà không phải để làm gì khác. Họ đến với ý nghĩ là mình đã hơn Ngài, và không bao giờ lưu tâm đến lời dạy hay để ý lắng nghe những thời Pháp của Ngài. Pháp nào họ cũng nghe từ lỗ tai này chạy sang lỗ tai kia, như nước chảy đầu vịt.
Khi nói đến những chuyện này, Ngài Acharn khúc khích cười, có lẽ Ngài thấy buồn cười một chút khi thỉnh thoảng gặp những người “thông minh” như vậy.
^^^
45. Một hòn núi kiêu hãnh
Rồi có những người mang đến đầy niềm kiêu hãnh tự cao tự đại của họ. Không biết làm thế nào họ có thể đi đứng bình thường được với đôi vai nặng trĩu hòn núi kiêu hãnh như thế. Cùng khắp bên trong họ chỉ là những đống tự tôn tự kỷ, to lớn đến độ làm kinh sợ, không phải đáng thương hại. Những người như thế đáng lý không giảng Pháp cho họ, nhưng đôi khi không thể tránh và Ngài ở vào thế phải giảng qua một thời Pháp miễn cưỡng. Không có đề tài Giáo Pháp nào phát sanh trong Ngài cả. Ngài Acharn nói rằng có thể là các “đống tự kiêu” của họ đã làm cho Giáo Pháp kinh sợ và bỏ chạy đi mất, để lại Ngài một mình cô đơn không người giúp đỡ, giống như con búp bê không hồn bị những mũi kim của lòng dạ hiểm độc đâm trích. Trong vòng các đệ tử thân cận, Ngài hồi nhớ các diễn biến ấy và nói, “Dù sao những điều họ nói cũng đúng. Lúc ấy thầy cũng hình như cùng trí, cố tìm ra một đề tài thích hợp cho họ. Nhưng tại sao thầy lại có thể hy vọng tìm ra cơ chứ? Họ giống những khúc gỗ hơn là con người.” Ngài cười. Nghe vậy, vài người trong nhóm đệ tử bắt đầu run, không phải vì lạnh mà vì sợ (nghĩ rằng nếu có tư tưởng như những “đống tự kiêu” này thì quả thật nguy hiểm).
Ngài Acharn nói rằng chỉ khi nào không thể tránh Ngài mới giảng cho họ một thời Pháp, bởi vì đối với những người như thế, Giáo Pháp cũng dường như thuốc độc, chỉ tạo hậu quả tai hại, và đó là vì lòng bất kính và ý định bất thiện của họ, không phải tại Giáo Pháp. Giáo Pháp chỉ ban rải hỗ trợ vô cùng quý báu đến người nghe với tâm lễ độ tôn kính. Chính thái độ tinh thần là nguyên nhân của sự khác biệt giữa những người khác nhau cùng nghe giảng một thời giáo lý. Có người như thể bị thiêu đốt và bực bội, trong khi ấy người khác cùng lắng nghe thời Pháp ấy cảm thấy hoan hỷ, phấn khởi nhẹ người như bay được.
Ngài Acharn thực tình muốn giúp những vị có tâm sai quấy ấy và làm giảm bớt hậu quả tai hại cho họ, nhưng không có cách nào. Có lần Ngài nghĩ rằng cứ cố gắng hỗ trợ, nếu không tạo lợi ích cho họ thì cũng không gây tai hại. Nhưng rồi cũng không làm gì được. Không bao giờ họ ngừng nuôi dưỡng tâm ganh tỵ bất thiện và phát ra những hậu quả hiểm độc, tự thiêu đốt chính họ và vẫn không màng lưu tâm đến Giáo Pháp.
Như vậy, đối với Ngài, dạy cho người quả thật là rất khó, kể cả khi họ đến từng nhóm nhỏ. Thế nào cũng có người tâm địa bất thiện đến để chọc tức, xem Ngài có bao giờ nổi sân không. Nhưng rốt cùng, khi làm hết cách để phá rầy và chọc giận, họ chỉ kiệt sức vô ích, những người ấy sẽ phải đón nhận số phận của họ - gặt hái những gì họ đã cố tình gieo. Một lần nữa, Ngài thương hại họ.
Nhưng cũng có những người đến gặp Ngài với mục đích trong sạch và thành thật tin tưởng nơi Ngài. Những vị này được giáo huấn và đào luyện đúng với mức độ chín muồi và xu hướng của họ. Tuy nhiên, số này ít hơn số người có ý kiến cuồng điên và ngoan cố. Cũng vì hạng người cuồng điên mà Ngài thường thích sống đơn độc trong những vùng rừng núi hoang vu, nơi Ngài có thể tận lực chuyên cần như ý muốn mà không bị quấy rầy. Dù muốn nhìn đâu, không có chi làm mắt sao lãng hay tâm khuấy động. Tiếng động của thú và tiếng kêu lảnh lót của chim rừng đối với Ngài giống như nhạc thiều ca khúc của cảnh trời, giờ nào trong ngày cũng có thể nghe, từ cành cây hay từ trong rừng vọng lại. Ngài và tất cả muông thú đều sống chung, thanh bình và hòa điệu, mỗi bên theo lối sống của riêng mình, không ai sợ ai, không ai gây hiểm họa cho ai.
Giữa khung cảnh thiên nhiên, tiếng du dương của rừng núi, tâm Ngài trầm mình tắm trong dòng suối mát mẻ yên tĩnh, trôi chảy vô cùng tận. Bất luận có suy nghĩ nào thì cũng hướng về việc chứng ngộ Giáo Pháp, tất cả rõ ràng cuộn chảy vào tâm. Dù cái chết có đến lúc bấy giờ, sẽ không gì khác hơn là trạng thái hoàn toàn buông xả và từ khước, một sự ra đi yên tĩnh và thanh bình trong rừng sâu, tâm không vương vấn đến hiện tượng tự nhiên đang xảy đến thân. Đó là tình trạng nhập diệt của phần lớn chư vị A La Hán. Đến một mình, các Ngài trầm tĩnh, lặng lẽ ra đi một mình, vì đó là cách từ giã cõi đời một cách tự nhiên. Các Ngài không bị đau khổ và buồn phiền khuấy động, vì đã buông bỏ tất cả lại nơi mà nó thuộc về – trong thân. Đó là lối sống và lối tịch diệt của chư vị Thánh Nhân, tất cả mọi ô nhiễm đều hoàn toàn được thanh lọc. Với tình trạng tận diệt mọi ô nhiễm, các Ngài tuyệt đối thanh tịnh. Khi thanh tịnh, các Ngài buông xả. Đối với chư Thánh đệ tử, gánh nặng càng vơi, càng cố gắng đặt xuống. Với hạng người phàm tục ở thế gian thì khác, gánh càng nặng, càng cố gắng làm cho nó nặng thêm. Đã quẳng đi gánh nặng, các vị Thánh đệ tử sống với “cái không.” Các Ngài “hết việc làm”, nói theo ngôn ngữ thông thường (vì đã đạt đến mức cùng tột, không còn gì nữa cần phải làm), nhưng các Ngài không “thất nghiệp” (vì có ai có thể thuê các Ngài?)
Trong thực tế, còn nhiều khác biệt nữa giữa chư thiên và loài người, nhưng trên đây chỉ kể lại vài điểm còn nhớ được. Những điều này có thể hữu dụng cho những ai quan tâm. Trong phần sau còn vài câu chuyện liên quan đến chư thiên. Những người và chư thiên đã được đề cập đến ở phần trên sống vào thời vài thập niên về trước và như vậy, có thể đổi thay theo định luật vô thường. Hy vọng rằng những tiến bộ về ngành giáo dục của thời hiện đại, tất cả đều chuyển biến để trở thành tốt đẹp hơn cho họ, cho xã hội của họ, hay rộng rãi hơn, cho đất nước của họ.
^^^
46. Khu rừng nhiễm bệnh sốt rét
Sau thời gian giáo huấn dân chúng, chư tỳ khưu và sāmaṇera trong tỉnh Nong Khai và Udorn Thani, Ngài Acharn trở về tỉnh lỵ Sakol Nakhorn, du phương xuyên qua những làng mạc trong vùng rừng núi của quận Vārijabhoom, Phangkone, Sawang Dindan, Vānorn Nivas và Aga Amnuay. Rồi Ngài đi đến Nakhorn Phanom xuyên qua quận Sri Songkrahm, qua các làng như Sarm Phong, None Dang, Dong Noi và Kham Noke, tất cả đều nằm sâu trong vùng nhiễm bệnh sốt rét và các bệnh sốt rừng khác. Một khi mắc phải một trong những chứng bệnh trên (nhất là bệnh sốt rét) là phải chịu ương yếu trầm kha cả tháng, cả năm, nếu không chết trong một thời gian ngắn. Người bệnh trở thành gánh nặng cho tất cả mọi người vì quá yếu để có thể làm việc, nhưng vẫn còn sống để ăn và ngủ như bình thường. Để miêu tả hoàn cảnh phải nuôi dưỡng một người chỉ tiêu thụ mà không sản xuất, người Thái có thành ngữ “gánh vác công tác làm dâu.” Trong những vùng rừng sâu nước độc, nhiều dân làng lâm chứng bệnh kinh niên này và trở nên tàn phế suốt đời.
Các vị tỳ khưu và sāmaṇera hạnh đầu đà có sức khỏe tốt hơn dân làng, nhưng cũng mắc phải chứng bệnh này. Trong vòng ba năm mà Ngài Acharn trải qua trong làng Sarm Phong, một số tỳ khưu đã lâm bệnh sốt rét và tịch diệt. Những vị sanh trưởng ở thành thị, những vị quen sống ở vùng đồng trảng và các nơi trống trải khác, khó lòng thích nghi được với khí hậu rừng núi. Một số tỳ khưu từ các tỉnh thành Ubol Rajathani, Roi Ed và Mahāsārakham, không thể sống trong rừng hoặc không thể chịu nổi bệnh. Họ không thể ở với Ngài Acharn lâu, và phải xin phép từ giã Ngài để sống ở nơi quang đãng xa khỏi khu rừng núi.
Lúc ở làng rừng Sarm Phong, Ngài Acharn kể cho các đệ tử biết về một vị long vương lén đến nghe Ngài thuyết giảng Giáo Pháp cho chư vị tỳ khưu và sāmaṇera trong những buổi họp tối. Vị long vương này ở đâu trên dòng sông Songkhram và có thói quen vào ngày wan phra (8) thì đến nghe Ngài Acharn giảng dạy chư tỳ khưu và sāmaṇera, hay về khuya lúc Ngài ngồi thiền. Chư thiên ở quả địa cầu và chư thiên ở các cảnh trời cũng có đến, nhưng không thường xuyên như ở Udorn hay Nong Khai. Vào những trường hợp đặc biệt, như ngày nhập hạ, giữa mùa an cư kiết hạ, và ngày ra hạ, dù ở đâu trong rừng sâu hay thành thị, luôn luôn có chư vị vô hình ấy, nhóm này hay nhóm khác, đến để nghe thuyết Pháp. Thí dụ như khi Ngài Acharn ngụ tại chùa Chedi Luang trong thành phố Chieng Mai (750 cây số về phía Bắc Bangkok).
__________
(8). Wan phra, ngày giới,tức ngày mồng một, mồng tám, rằm, hai mươi ba và ba mươi, tính theo âm lịch. 105
^^^
47. Chuyện đào giếng – Thiên nhãn của Ngài
Một chuyện khác đáng kể đã xảy ra trong khi Ngài ở tại làng Sarm Phong. Lúc ấy vào mùa khô ráo và có khoảng sáu bảy mươi vị tỳ khưu và sāmaṇera đang được Ngài hướng dẫn và đào luyện. Nước không đủ dùng, và chút nước nào tìm được cũng đục ngầu. Chư vị tỳ khưu và sāmaṇera tham khảo với dân làng, và thống nhất đào sâu thêm cái giếng sẵn có để dùng mạch nước trong ở phía dưới. Một vị tỳ khưu cao hạ đến bạch cho Ngài rõ kế hoạch. Ngài Acharn im lặng một lúc rồi nghiêm nghị khẳng định không cho đào. Ngài nói, “Không, quý vị không nên cố gắng đào thêm cho cái giếng sâu hơn. Rất nguy hiểm.” Ngài ngưng và không nói gì thêm nữa. Vị tỳ khưu thuật lại câu trả lời nghiêm nghị của Ngài cho mọi người. Vị tỳ khưu đã kể lại những gì Ngài nói, nhưng thay vì quan tâm tuân hành lời Ngài, họ tiếp tục thực hiện chương trình đã hoạch định trước, lần này giữ kín, không bạch cho Ngài biết. Họ nghĩ rằng giếng cách chùa khá xa, Ngài Acharn chắc không hay biết gì.
Vào lúc mặt trời đứng bóng, nghĩ rằng Ngài Acharn đang nghỉ ngơi trong chùa, họ kéo nhau ra giếng và bắt đầu đào. Tuy nhiên không bao lâu sau, đất phía trên miệng giếng bỗng nhiên lở rộng ra và sụp, lấp đầy đáy giếng cao như trước, biến bao nhiêu công lao trở thành số không. Càng tệ hại hơn, một trong những người đào giếng bị đất sụt đè, suýt chết. Đó là hình phạt cái tội không nghe lời. Không ai đủ tỉnh táo để ngăn người khác đừng thực hiện kế hoạch đó nữa. Giờ đây họ rất kinh hãi, sợ Ngài Acharn biết rằng họ đã không tuân lệnh Ngài. Lòng ân hận sâu xa, họ cẩn thận rào quanh vùng đất sụp, rồi cùng nhau âm thầm sám hối với Ngài Acharn, xin Ngài tha lỗi trong tâm, và xin Ngài hỗ trợ đào được chỗ đất sụp để ít ra cũng có chút nước dùng được. Rồi họ bắt đầu vét sạch giếng và mọi việc sớm hoàn tất mỹ mãn một cách kỳ diệu! Họ mỉm cười yếu ớt vì bớt lo. Dù sao, lòng hối hận tội lỗi đã phạm vẫn còn đè nặng lương tâm và khi xong việc, tất cả mọi người - tỳ khưu, sāmaṇera và hàng thiện tín – nhanh chóng trở về chỗ ngụ, vừa hổ thẹn vừa kinh sợ về chuyện mình đã làm.
Tối là thời gian họp, và càng về chiều lửa tội lỗi càng thiêu đốt mọi người. Tất cả đều biết chắc rằng Ngài Acharn có khả năng hay biết mọi việc, không ai còn nghi ngờ gì nữa. Ngài còn có thể hồi nhớ những ý tưởng sai quấy trong tâm họ mà chính họ đã quên, và nghiêm khắc quở rầy. Sao có thể giấu việc không vâng lời trắng trợn này? Tất cả đều trông chờ những lời lẽ mạnh mẽ trong thời Pháp thoại tối ngày hôm ấy hoặc sáng hôm sau. Nhưng khi gần đến giờ họp, Ngài ra lệnh bãi bỏ. Không có dấu hiệu nào về việc họ đang lo sợ sẽ xảy ra. Thực ra, Ngài Acharn biết tất cả mọi việc, nhưng là vị thầy sáng suốt, Ngài biết rằng đề cập đến trong lúc ấy sẽ làm cho vấn đề thêm trầm trọng. Ngài có thể trông thấy lửa ăn năn hối hận thiêu đốt họ như thế nào. Hình phạt như thế là đủ.
Sáng hôm sau, sau giờ ngồi thiền, Ngài Acharn bắt đầu đi kinh hành cho đến giờ vào làng trì bình. Chư vị tỳ khưu và sāmaṇera đang chờ, hồi hộp lo sợ Ngài khiển trách, vì tối hôm trước chưa có gì xảy ra. Tuy nhiên, hình như để làm nguội bớt ngọn lửa trong lòng họ, Ngài Acharn dịu dàng nói, “Chúng ta là những người đang cố gắng thực hành Giáo Pháp. Như vậy, không nên quá hèn nhát hay quá bạo dạn. Ai cũng mắc lỗi lúc nọ lúc kia, nhưng đã mắc lỗi thì nên nhận lỗi ngay. Đức Phật cũng có lúc mắc lỗi, nhưng Ngài nhận lỗi và nỗ lực sửa sai. Ý định có thể tốt, nhưng cũng có thể bị pha lẫn với si mê. Lần sau phải cẩn thận và thận trọng. Luôn luôn giữ chánh niệm là con đường của người sáng suốt.” Ngài dừng lại rồi nhìn họ với nụ cười an ủi. Không có gì cho thấy lúc đó Ngài đang nghĩ gì.
Buổi sáng hôm ấy, Ngài hướng dẫn chư tăng vào làng trì bình như thường lệ. Rồi đêm ấy, và đêm hôm sau nữa, không có buổi họp. Ngài chỉ khuyên họ gia công cố gắng. Mọi người đều thấy nhẹ nhõm (vì họ không dám đối diện với Ngài lâu trong phòng họp).
Chỉ đến đêm thứ tư sau hôm đào giếng mới có buổi họp. Nhưng không có ai nhắc gì đến chuyện đã xảy ra tại giếng, cho đến khi mọi người quên hẳn. Không ai dám nói gì đến việc ấy với Ngài Acharn, và Ngài cũng không đi ra giếng, vốn cách chùa khá xa. Rồi một ngày nọ có buổi họp thông thường, Ngài bắt đầu dạy về những sắc thái thực hành Giáo Pháp, và đề cập đến sự vâng lời dạy của thầy.
“Chư tăng phải vâng theo Giáo Pháp chứ không tuân theo mệnh lệnh của lòng ham muốn hoang dại của mình. Nếu không sẽ bị mất con đường chân chánh dẫn đến mục tiêu tận diệt đau khổ, và cả mục tiêu đó cũng sẽ mất. Phải tôn trọng Giáo Pháp và Giới Luật (Dhamma và Vinaya) và vâng lời dạy của thầy. Không được vi phạm. Vi phạm như vậy vô cùng nguy hại cho chính người vi phạm và cho người khác.
“Đất ở chỗ giếng không phải hoàn toàn là đất sét. Lớp dưới là cát. Đào sâu chỉ làm cho lớp đất phía trên sụp xuống và đè chết người đào. Vì lẽ ấy, thầy đã ra lệnh không được đào sâu thêm. Thầy đã xem xét tất cả trước khi không cho phép đào giếng sâu thêm, nhưng không cần phải nói hết lý do cho quyết định của thầy. Đáng lẽ quý vị phải ngưng lại để xem xét vấn đề thận trọng hơn, và quý vị không ngưng để xem xét vì ngoan cố chứ không phải vì kém hiểu biết. Vẫn cái tật ương ngạnh đối với cha mẹ từ thưở bé, quý vị mang đến đây với thầy. Những hành động ngoan cố của trẻ con được nuông chiều và do đó được bồi bổ nuôi dưỡng, nhưng những hành động ấy ở độ tuổi và địa vị của quý vị thì không bao giờ nên dung thứ hoặc nuông chiều. Những hành động như vậy làm phát sanh thêm lỗi lầm và tai hại, do đó đáng bị khiển trách. Người liên tục hành động ngoan cố chỉ tạo thêm bất thiện. Vị sư mà có tác phong như vậy đáng được gọi là “vị sư ương ngạnh”, vật dụng của sư gọi là “vật dụng của vị sư ương ngạnh.”
“Vị sư này ngoan cố, vị sư kia không vâng lời – tất cả đều ương ngạnh. Vị thầy có đám đệ tử ngoan cố và không vâng lời. Bất kỳ cái gì chuyển thành ngoan cố đều bị phá hủy. Thế gian mà bị tật ngoan cố ương ngạnh sẽ tan vỡ ra từng mảnh và Giáo Pháp chắc chắn sẽ sụp đổ.”
Rồi Ngài hỏi để chọc, “Ở đây có ai muốn làm nhà sư ương ngạnh không? Và ai muốn Acharn của mình là Acharn của các nhà sư ương ngạnh không? Nếu có, ngày mai vị ấy có thể ra giếng để đào thêm nữa cho đất sụp lở đè chết, và có thể tái sanh vào một cảnh trời đặc biệt dành cho những nhà sư ương ngạnh. Trong tất cả các cảnh trời ấy, cảnh ấy quả thật tuyệt diệu và duy nhất. Chắc chắn là không có vị trời nào đã được thấy cảnh giới đó.”
Sau những lời khiển trách nặng nề ấy, Ngài dịu giọng và sang một đề tài khác nhẹ nhàng hơn, Ngài nói dịu dàng nhưng đi sâu vào chi tiết, về tai hại của tật ngoan cố và ương ngạnh. Trong suốt thời gian nói, chư tăng điếng người và nín thở, ngồi nghe những lời quở trách thình lình đến bất ngờ. Sau buổi họp, khi Ngài Acharn đã đi khỏi, chư tăng bàn tán xôn xao, người này hỏi người kia, ai mà dám bạch lại câu chuyện đào giếng với Ngài. Tất cả đều thề rằng không dám mơ đến việc làm điều ấy. Tất cả đều quá sợ hãi vì những gì đã xảy ra tại giếng nước nên làm gì có đủ can đảm bạch lại với Ngài Acharn.
^^^
48. Nghiêm trị người có tội
Từ lúc ở động Sarika, khả năng thần thông trong một vài lĩnh vực mà Ngài Acharn đã rất thông thạo ngày càng trở nên tuyệt hảo, đến độ ta có thể nói là vô bờ bến. Những vị tỳ khưu đệ tử của Ngài đều biết rõ rằng họ phải kiểm soát chặt chẽ tâm, không những trong giờ họp mà cả lúc không có mặt Ngài. Không bao giờ họ có thể thả lỏng suy nghĩ và xúc cảm chạy loạn. Mỗi khi có buổi học giáo lý, tất cả những suy nghĩ và cảm xúc điên loạn ấy rồi thế nào cũng thành một phần của bài Pháp thoại, và những người “nghĩ”, “cảm xúc” ấy rồi cũng đối diện với chúng một lần nữa.
Giờ thuyết giảng Giáo Pháp là một trong những thời gian quan trọng nhất, và trong khi tạm nghỉ giảng, ta chỉ có thể đoán được khi Ngài Acharn phát hiện được những suy nghĩ tà quấy hay lang thang. Giọng của Ngài thình lình thay đổi, nhưng không bao giờ nêu tên ai là người có tất cả những suy nghĩ đó, và việc đổi giọng ấy thông thường đủ để làm cho “người đang nghĩ” tức khắc giựt mình và ngưng lại, do vậy đưa được tâm lang thang ấy từ cõi mộng trở về. Đi theo Ngài vào làng trì bình cũng vậy. Tất cả và mỗi suy nghĩ vu vơ phát sanh do những gì nghe hay ngửi trên đường chắc chắn sẽ bị tiết lộ trong buổi họp, nhưng không bao giờ nêu tên. Vị tỳ khưu đó tự mình tái mặt và hổ thẹn một mình. Những lúc như thế ai cũng liếc quanh xem ai là người có ý nghĩ kỳ lạ như vậy.
Dù sao, tất cả những vị tỳ khưu đệ tử đều có một điểm giống nhau, và đó là sau khi bị nghiêm trị, không ai giận dỗi hay thấy bị tổn thương. Sau khi đã ra khỏi “phòng trừng trị”, họ cười nói hài hước và tìm xem đó là ai. Người phạm lỗi cũng không che đậy lỗi mình. Vị nào sai tự nhiên nhận lỗi. “Chính tôi đó, lúc đó tôi quả thật điên rồ và rất trơ trẽn, mặc dù biết rõ thế nào cũng bị nghiêm trị. Tôi đã để cho mình bị lôi cuốn bởi... Thật lạ là sao tôi có thể quên thế. Tôi rất đáng bị khiển trách và chuyện này làm tôi phải hết sức thận trọng tự kiểm soát lần sau.”
Người viết xin cáo lỗi cùng bạn đọc vì đã tiết lộ ra đây những phẩm hạnh không mấy trang nghiêm trong giới tỳ khưu dhūtaṅga đệ tử Ngài Phra Acharn Mun, nhưng có lẽ đây là bài học cho những ai, dù là tỳ kheo hay cư sỹ, vẫn còn chưa được hoàn hảo trong chánh niệm và trong đức hạnh tự kiểm soát. Thường thì chúng ta phải học những bài học của chúng ta theo cách cứng rắn, vì ta có nhiều chỗ chưa hoàn hảo.
Việc đi vào làng trì bình, vốn là nhiệm vụ cần thiết của nhà sư, là trường hợp rất thông thường để những vị sư dhūtaṅga gặp những đối tượng gây cảm xúc độc hại. Khi đã gặp những đối tượng như vậy, không thể tránh khỏi bị vọng động và do đó bị nhiễm độc bởi chính suy nghĩ và cảm xúc không được kiểm soát của chính họ. Họ biết rằng những gì họ đã để cho xảy ra (hay đúng hơn, những gì họ dễ duôi để cho mình nghĩ đến) là sai quấy, và họ phải tìm cách để tự kiểm soát sau đó, nhưng chắc chắn là họ sẽ bị khiển trách nặng nề trong buổi họp chiều hôm ấy. Việc này sẽ làm lắng dịu những suy nghĩ hoang dại trong một thời gian, nhưng sớm muộn gì cũng gặp lại cảm thọ đó lần nữa, vết thương đang lành giờ đây mở trở lại, và như lần trước, cần phải có “liều thuốc” thật mạnh để trị.
Trong một buổi họp mà có một số những vị tỳ khưu chưa được hoàn hảo về phương diện này, tất nhiên phải có người còn bị ít nhiều vướng mắc với những cảm thọ như vậy. Có lúc, vị tỳ khưu đã khá miễn dịch với những bệnh ấy nhờ “liều thuốc” mạnh mà Ngài Acharn áp dụng, nhưng lần khác thì vị ấy ít miễn dịch hơn và khi đó Ngài sẽ mắng nặng nề và được chữa nhờ cách chữa mạnh mẽ của Ngài Acharn. Đối với những tâm còn ít nhiều ô nhiễm, khi này lúc nọ còn có thể đi sai lạc.
Thực là Ngài Acharn hiểu như vậy và không bao giờ muốn kiểm soát chặt chẽ các vị đệ tử trong mọi trường hợp. Chỉ khi nào vấn đề có khuynh hướng phát triển trầm trọng Ngài mới nghiêm khắc quở trách để giữ cho cái tâm hoang dại và vô trật tự của họ khỏi chạy tán loạn. Ngài muốn suy nghĩ của họ nằm trong đề mục Giải thoát và mọi nỗ lực đều hướng về đó. Do đó trong những buổi họp chiều, Ngài thường dùng thuốc mạnh để chữa trị những người thiếu kiểm soát tâm trong ngày hôm đó. Không còn nghi ngờ gì nữa, tất cả những điều đó cho thấy khả năng đặc biệt duy nhất và rất hữu ích của Ngài, với tư cách là vị thầy dạy Giáo Pháp, là có thể đọc tâm của đệ tử để giúp họ và kiểm soát họ hữu hiệu, vì lợi ích và tiến bộ của chính họ. Ít ra, những khả năng ấy của Ngài cũng khiến họ ngưng đùa giỡn với những suy nghĩ và cảm xúc độc hại và kiểm soát đám cỏ dại đang mọc và lan tràn trong tâm họ, bởi vì một ý nghĩ, dù là thiện hay bất thiện, lúc nào cũng sanh sôi nảy nở và lặp đi lặp lại liên tục.
^^^
49. Kinh nghiệm hành thiền của Ngài
Pháp hành thiền mà Ngài Acharn dạy đệ tử thật là thâm sâu và đầy đủ chi tiết. Giới luật được giải thích tỉ mỉ; sự khác biệt giữa các tầng thiền định và thiền tuệ được giải thích tận tường. Ngài đã trực tiếp chứng ngộ tất cả các mức độ thiền định và mức độ trung cấp trong tuệ giác từ ngày lưu ngụ tại động Sarika. Về sau, khi ở vùng Đông Bắc ít lâu, pháp hành của Ngài càng cao siêu hơn. Như vậy, Ngài có đủ khả năng giải thích một cách đầy đủ về mọi trạng thái của thiền định, còn tuệ giác thì ở mức trung cấp cho quý vị tỳ khưu và sāmaṇera sống dưới sự đào luyện và hướng dẫn của Ngài.
Thiền định của Ngài Acharn, dù ở tạm định khaṇika samādhi, cận định upacāra samādhi hay an chỉ định appaṇā samādhi đều thật kỳ diệu. Có lúc Ngài thiền ở khaṇika samādhi, lúc khác ở upacāra samādhi và có thể ra ngoài thu nhận thông điệp và tin tức sự kiện hầu như vô cùng tận từ bên ngoài. Ngài cũng thỉnh thoảng giao tiếp với cảnh giới vô hình, ma, thần rắn (nāga) hay chư thiên ở nhiều cảnh giới khác nhau. Ngài dùng cận định upacāra samādhi để tiếp các vị khách tới gặp Ngài. Nhiều khi, tâm Ngài “rời” khỏi thân và đi thưởng ngoạn các cảnh trời khác nhau, từ các cõi dục giới cho tới các cõi vi tế cao hơn nữa. Các cuộn du ngoạn này đôi khi cũng dẫn Ngài tới các cõi tối tăm nơi có các chúng sanh đang đau khổ vì quả của nghiệp bất thiện của chính mình.
Để mô tả những cõi sống này, người ta nói “lên” hay “xuống”, nhưng phải hiểu rằng những từ ấy không có nghĩa bề ngang hay chiều cao. Chúng chỉ nói lên mức độ thô hay tế, “lên” là sự tăng cao mức độ vi tế và “xuống” là sự tăng trưởng tính thô kệch. Tương tự như vậy, có thể nhìn thấy trong thế gian loài người khi nói đến tù nhân, cũng ở trong một nhà tù, có người bị hình phạt ngắn hạn, người khác tội nặng hơn phải chịu ở lâu dài. Không có sự khác biệt “lên” hay “xuống” trong chỗ bị nhốt của hai loại tù nhân, cũng như trong việc di chuyển theo chiều dọc từ cõi trời tới các cõi tối tăm. Tuy nhiên vẫn có khác biệt rõ rệt, vì trong cảnh người, người trong lao tù và người ở ngoài có thể biết một vài điều về người kia, ít nhất cũng biết rằng nhóm người kia thực sự tồn tại. Những chúng sanh mà ta gọi chung là vô hình, như ma hay chư thiên, mỗi nhóm có những cảnh giới riêng biệt của họ không phải chỉ không nhìn thấy và biết đến được với ta, mà cả với các cõi khác nữa, mặc dù những luồng nhận thức có thể qua lại từ cảnh này sang cảnh khác.
Nói rằng cảnh giới này là không nhìn thấy được và không được biết đến là do khả năng cảm nhận của mỗi cá nhân chứ không phải vì những cảnh giới ấy không thực sự tồn tại, hay không có thật, dù là cảnh giới của chúng sanh hữu phúc, thế giới loài người, thế giới chư thiên (devatā) hay thế giới cao hơn của cảnh phạm thiên (brahma). Vả lại, có vài người có khả năng biết sự tồn tại của những chúng sanh gọi là vô hình và cũng có thể đến thăm họ do khả năng phát triển riêng của những vị ấy. Cần phải có khả năng tâm linh đặc biệt thì mới hiểu được từ “lên” hay “xuống.” Những từ ấy được mượn từ ngôn ngữ quy ước và được sử dụng với một ý nghĩa mới, trừu tượng.
^^^
50. Hiệu quả tạo thói quen của thiền định
Vì tâm của Ngài Acharn đã cực kỳ năng động và lanh lẹ, tầng cận định upacāra samādhi của Ngài mật thiết gắn liền với tầng tạm định khaṇika samādhi. Chỉ một sát na định có thể đưa Ngài đến cận định, rồi từ đó có thể hướng ra ngoài thu nhận thông điệp hay chứng kiến những sự kiện xảy ra bên ngoài (trong giai đoạn này, nhiều khi là ngoài ý muốn của Ngài). Về sau, khi đủ khả năng kiểm soát tâm một cách hữu hiệu, Ngài có thể sử dụng tất cả các tầng thiền theo ý muốn bằng nhiều cách khác nhau. Trong khoảnh khắc, tâm Ngài nhập vào tạm định khaṇika samādhi. Rồi Ngài muốn nhập vào cận định upacāra samādhi, và rồi sau đó Ngài muốn xuất ra và nhập vào cái bệ của định appaṇā samādhi, được gọi là tầng thiền không lay chuyển (toàn định, an chỉ định), và an trụ trong đó bao lâu tùy theo ý muốn.
Tầng thiền thâm sâu an chỉ định này rất vi tế, không lay chuyển được và có ở bên trong một trạng thái thanh bình an lạc, hạnh phúc tĩnh lặng mà không lời nào có thể tả. Ngài Acharn nói rằng Ngài đã đạt an chỉ định, nhưng nhờ khuynh hướng luôn sử dụng trí tuệ mà Ngài có thể phá vỡ định, không nhập định lâu. Người hành thiền mà bị mê hoặc dính mắc trong an chỉ định sẽ làm chậm trễ tiến bộ của mình, tự thấy mãn nguyện và không cố gắng tiến bước trên con đường phát triển trí tuệ. Có nhiều hành giả mà tiến bộ trên đường Đạo bị chặn đứng vì say mê đắm chìm trong hiệu quả rất tinh vi của an chỉ định, nó tạo thói quen thọ hưởng sự an lạc. Họ có chiều hướng lãng quên sử dụng trí tuệ mà thích thú cuộn trong ổ kén của sự hoan hỷ tự mãn. Nếu không được một vị thiền sư mạnh mẽ khuyến cáo, họ không thể ra khỏi sự dính mắc này và sẽ kết luận rằng đây chắc hẳn là sự Chấm dứt Đau khổ, Niết Bàn.
Tâm nhất điểm tạo nên tình trạng quân bình tĩnh lặng cùng với an lạc thanh bình của tầng thiền này vẫn còn gốc rễ chôn sâu trong ô nhiễm, trong quá trình của trở thành, và trong sự tái sanh trở lại, hậu quả của quá trình đó. Nếu không có ánh sáng của trí tuệ để đào tận gốc, không thể phá vòng quay của sanh tử. Vì thế có lời khuyên dạy rằng ở tất cả mọi tầng thiền, luôn luôn phải có trí tuệ đi kèm. Lời dạy này đặc biệt đúng cho an chỉ định, cần trí tuệ thật dũng mãnh và sắc bén để ngăn ngừa sự ngộ nhận.
^^^
51. Trung Đạo của bậc Thánh Bất Lai - Những ô nhiễm khéo lẩn trốn
Trong chuyến đi thứ nhì đến miền Đông Bắc, Ngài Phra Acharn đã có kinh nghiệm thâm sâu ở mức độ trung cấp về tuệ giác, có các đặc tính của bậc Thánh Bất Lai, hay A Na Hàm (Anāgāmī). Bậc Thánh Nhân đến tầng này phải hoàn toàn thấu triệt bản chất của thân, vượt qua cả hai giả định hoặc cho rằng cơ thể vật chất này quả thật hấp dẫn hay có nhiều khoái lạc, hoặc cho rằng thân này thật xấu xí hay đáng ghê tởm. Nhờ phát triển trí tuệ, tâm đã đứt lìa ra khỏi cả hai cực (cả hai đều tạo tình cảm như nhau), giờ đây bước trên Trung Đạo, ở giữa, nhận thức thân này chỉ là những viên đá lót đường, và do đó hoàn toàn buông bỏ cả hai ý niệm cực đoan.
Đây là điều kiện tối thiểu, là mức độ cần thiết để chứng ngộ Đạo Quả Bất Lai (Anāgāmī). Vị Thánh Bất Lai càng phải thực hành để trau dồi và phát triển trí tuệ thêm nữa, nhằm thành đạt những lợi ích tối đa của giai đoạn này trên Đạo Lộ. Vị A Na Hàm mà có thể viên mãn như thế sẽ tái sanh và tầng thứ năm (akaniṭṭha) của cảnh giới Phạm Thiên mà không cần phải sanh vào cảnh nào trong bốn cảnh thấp hơn.
Ngài Acharn dừng ở tầng Bất Lai trong một thời gian khá lâu. Chúng tôi biết được điều này do chính Ngài kể. Không có ai chỉ bảo nên Ngài phải tiến hành rất chậm và hết sức thận trọng. Đây là con đường mà Ngài chưa hề quen thuộc nên luôn luôn, bất cứ lúc nào, cũng có thể vấp ngã và đi lệch ra ngoài. Từ kinh nghiệm bản thân, Ngài biết rằng khi niệm và tuệ trở nên vi tế và thâm sâu, càng tiến bộ trong Giáo Pháp thì các ô nhiễm cũng trở nên vi tế hơn và càng lẩn trốn khéo léo lẩn trốn một cách tinh vi, càng lẩn trốn kín đáo hơn, càng khôn ngoan trá hình và tạo cho ta những ảo tưởng sai lầm. Vì thế, vượt qua được một chướng ngại cũng rất khổ nhọc. Đơn độc một mình, Ngài phải can đảm đối diện và cương quyết chiến đấu, không trông đợi có được sự hướng dẫn hay nhắc nhở nào, ngoại trừ những lời dạy trong Kinh Điển. Ngài phải trải qua những thử thách rất đau khổ khi “xung phong xông pha giữa rừng hoang.” Phải hứng chịu bao nhiêu đau khổ của những thử thách gian lao ấy, rồi trở về dạy dỗ, giúp chúng ta tiết kiệm cả thì giờ lẫn sức lực.
Thỉnh thoảng Ngài Acharn thuật lại cho các môn đệ nghe về những ngày tháng mò mẫm, về những khổ cực và thiếu thốn, những thử thách và gần như tình trạng của thánh tử đạo. Chính người viết cuốn sách này đã hai lần không cầm được lệ rơi vì quá cảm động, khi lắng nghe và được biết những đau khổ không kể xiết của Ngài trong thời gian ấy, và kính cẩn hết lòng thán phục giáo lý vi diệu mà Ngài đã chứng ngộ. Thường có những ý nghĩ phát sanh đến người viết, không biết trọn kiếp sống này ta có thể thành đạt được một phần nhỏ nhoi nào số thành tựu của Ngài. Những lời thuật của Ngài quả thật vô cùng khích lệ, cho người viết nghị lực mới mẻ đúng lúc cần tới nghị lực.
Trước đó Ngài Acharn đã nói rằng mỗi khi hạnh tinh tấn trở nên dũng mãnh thì đồng thời cũng chán sống trong cộng đồng, mong muốn được sống đơn độc ẩn dật. Tuy nhiên, vào lúc bấy giờ, còn có một số đệ tử hết lòng trông đợi sự hướng dẫn của Ngài như thầy của họ. Vì thế Ngài phải ở nán lại một thời gian nữa, cho đến khi ít nhất có vài người hội đủ khả năng để tự lực cánh sinh đến một mức độ nào đó. Ngài biết rằng việc phát triển nội tâm của Ngài chưa được viên mãn vì Ngài mới chỉ đạt đến tầng thứ ba của Giác Ngộ, còn phải trau dồi và phát triển thêm đến một tầng nữa mới thành tựu mục tiêu Chứng Ngộ cùng tột.
^^^
52. Ca khúc hòa tấu của chúa sơn lâm - Ảnh hưởng của tâm từ thanh khiết
Trong thời gian ba hay bốn năm, Ngài Acharn nhập hạ trong vùng quanh làng Sarm Phong, Quận Sri Songkhrarn gần thị trấn Nakhorn Phanom. Ngài nhập một Hạ tại làng Huay Sai trong quận Khamja-ee gần thị trấn này. Ngài thích những nơi ở quanh các làng Huay Sai, Khamja-ee, Nongsoong và Khoke Klarng vì nơi đó là vùng rừng núi. Đặc biệt là tại làng Phakgood, Ngài nói, có rất nhiều cọp và cũng có nhiều vị trời đến viếng thăm Ngài. Chư thiên thường đến vào lúc ban đêm để nghe Ngài thuyết giảng, khi cọp to lớn và hung tợn tự do rong ruổi trong vùng. Đôi khi các vị chúa sơn lâm cũng gầm thét lớn tiếng để kêu gọi nhau, hợp thành một ca khúc hòa tấu, vang dội khắp khu rừng. Tiếng gầm thét của chúng nghe giống như tiếng kêu của loài người lúc gọi nhau từ xa. Khi một con gầm lên, con khác liền hòa lại và không bao lâu cả một vùng nghe vang lên tiếng gầm điếc tai của chúng. Hòa khúc rùng rợn này không liên tục, thỉnh thoảng ngừng một chặp rồi bắt đầu trở lại, mỗi “ca sỹ” cố gắng la to hết sức mình để tạo một buổi trình diễn hay và to vang nhất.
Nhiều khi, các vị tỳ khưu và sāmaṇera ở với Ngài phải thức suốt đêm vì tiếng kêu làm ngộp thở của những vị chúa tể rừng xanh. Ngài Acharn rất tài trong cách khuyến khích các đệ tử tiến tu. “Tất cả những bộ xương lười nhác phải lo đề phòng cọp. Nó, không thích gì hơn việc ăn thịt các tỳ khưu và sāmaṇera lười nhác. Người nào biết sợ cọp thì không nên sợ tinh tấn tu hành. Những ai dũng mãnh chuyên cần sẽ không làm mồi cho cọp.”
Nghe những lời của Ngài, chư tỳ khưu và sāmaṇera được khích lệ, và mặc dù cọp gầm vang dội, vẫn tinh tấn thiền hành, sẵn sàng hy sinh mạng sống, mặc dù vô cùng lo sợ.
Đối với thú dữ, những sàn gác nhỏ chỉ cao vừa hơn mặt đất vài tấc, không thể bảo vệ an toàn. Nếu vị chúa rừng nào muốn bắt họ làm mồi thì các tỳ khưu và sāmaṇera đó hoàn toàn bất lực. Do đó lời khuyến cáo của Ngài Acharn được kính cẩn tuân theo. Đôi khi thấy cọp thật to đi ngang qua khu của chư tăng, nhưng không làm hại đến ai. Có lẽ chúng chỉ muốn đi qua đó thôi. Ngài Acharn biết chắc rằng không con cọp nào dám tấn công các đệ tử của Ngài vì chư thiên mà đêm đêm đến nghe Ngài thuyết giảng luôn canh giữ khu vực đó. Các vị ấy tự nguyện bảo vệ Ngài và tất cả các môn đệ đang tu trong vùng, nói với Ngài rằng sẽ không có gì có thể làm hại các Ngài được. Các vị Trời ấy cũng cung thỉnh Ngài lưu lại nơi đây càng lâu càng tốt. Do vậy, lời khuyến cáo của Ngài chỉ để khuyến khích chư vị đệ tử và giúp họ vững lòng tin. Chính các con cọp có lẽ cũng “cảm nhận” được sự an toàn khi sống trong vùng, rằng đây là nơi mà chúng có thể thọ hưởng đời sống thanh bình, không phải lo sợ hay nghi kỵ ai. Không một dân làng nào dám đến săn bắn nơi Ngài Acharn cư ngụ. Họ nói với nhau rằng săn bắn như vậy là một tội ác nghiêm trọng và cây súng có thể tự nhiên phát nổ, và người đi săn sẽ thiệt mạng.
Có một vùng mà có nhiều cọp dữ đến tấn công dân làng và trâu bò, nhưng khi Ngài Acharn đến lưu ngụ tại đó thì không còn xảy ra các vụ bị cọp tấn công nữa, mà cũng không ai biết là cọp đi tìm mồi ở đâu. Tác giả biết được hiện tượng kỳ lạ này do chính Ngài Acharn kể và cũng nghe dân làng trong nhiều vùng mà Ngài đã có lưu ngụ thuật lại như vậy.
Một chuyện khác không kém kỳ diệu là chư thiên đến thăm viếng Ngài Acharn để được nghe chỉ dạy. Vị lãnh đạo nói rằng tất cả các chư thiên ở nơi này đã đặc biệt thọ hưởng hạnh phúc thanh bình đặc biệt từ khi có Ngài Acharn lưu ngụ tại đây. Hào quang của tâm từ mà Ngài Acharn ban rải dường như bao trùm cả đất và trời, mạnh mẽ và kỳ diệu không thể tả. Vị lãnh đạo chư thiên cũng nói rằng nơi nào mà Ngài cư ngụ, chư thiên cũng cảm nhận được ánh sáng của Giáo Pháp phát ra từ tâm Ngài. Trong khi giảng cho các vị tỳ khưu và sāmaṇera, tiếng nói của Ngài vang dội như sấm khắp các hướng, bên trên phía dưới và chung quanh, và có thể nghe được từ một nơi rất xa.
^^^
53. Cuộc đời của con người quả thật ngắn ngủi
“Nếu tiếng nói của tôi vang rền như vậy, có ai trong cảnh người nghe được những lời Pháp thoại của tôi không?” Ngài Acharn hỏi.
“Làm thế nào mà họ nghe được và hiểu biết được những điều như vậy”, vị trời lãnh đạo trả lời, “khi mà mắt tai mũi lưỡi thân và tâm của họ lúc nào cũng được sử dụng để tích trữ, chồng chất trên mình họ tràn đầy những tội ác và hiểm họa. Quả thật tội nghiệp cho họ! Từ khi được sanh ra đến lúc lìa đời, họ không biết và không hiểu gì đến Giáo Pháp hay giới luật mà đáng lý ra họ phải biết. Nếu có, thì chỉ có vài người lưu tâm đến Giáo Pháp. Tuổi thọ của con người ngắn ngủi đến nỗi thậm chí chết đi và tái sanh trở lại cả trăm lần rồi mà một vị trời trên quả địa cầu vẫn chưa chết, nói chi đến các vị ở những cảnh trời hay những vị ở cảnh Phạm Thiên (Brahma).
“Phần lớn chúng sanh ở cảnh người thật là dể duôi và quá tự tin. Họ có nhiệm vụ bảo trì Giáo Pháp nhưng lại không biết gì đến Giáo Pháp và Giới Luật, những bảo vật quý giá tối thượng. Bất hạnh thay, người ác chỉ thích gây tội khổ, họ chỉ mang xác thân người. Lúc lâm chung, khi hơi thở cuối cùng chấm dứt, họ không còn là người nữa (thấp hơn người và tái sanh làm súc vật hay chúng sanh trong các cõi khổ). Chư thiên có thể thấy tất cả, nhưng không thể làm gì để giúp họ.
“Sau cái chết của một người tội lỗi như vậy, thông thường người ta cung thỉnh những vị tỳ khưu trong Giáo Hội đến để đọc tụng những đoạn kinh trong tạng Luận (Abhidhamma) bắt đầu bằng những chữ kusalā dhamma, akusalā dhamma (thiện pháp, bất thiện pháp v.v.) vì lợi ích cho người chết. Nhưng than ôi, làm vậy có ích gì? Làm thế nào người ấy nghe được lời tụng? Làm sao họ có thể nghe được gì? Họ đã bị chính những tội lỗi của họ kéo lôi đi mất. Trong lúc còn là chúng sanh ở cảnh người, họ không bao giờ để ý lắng nghe một thời Pháp hay quan tâm đến việc thực hành một giới nào. Những câu kinh được đọc tụng hay thời Pháp được thuyết giảng của chư tăng lúc bấy giờ chỉ bổ ích cho người sống, nếu họ để tai lắng nghe, nhưng chính ta có thể thấy, bao nhiêu người chịu khó để ý lắng nghe.”
“Không, con người không có khuynh hướng ưa thích Giáo Pháp theo cách mà họ có. Thay vì thế, họ lại còn có ý thiên về những điều tội lỗi bất thiện mà đến cả loài thú cũng không bao giờ làm. Suốt đời họ chỉ miệt mài chìm đắm trong điều ác. Chúng tôi trong cảnh giới vô hình đã thấy và biết rõ những việc làm của con người hơn là người mà biết chuyện của chúng tôi. Ngoại trừ Ngài Acharn là trường hợp đặc biệt, với oai lực phi thường Ngài có thể biết tất cả chúng sanh trong tất cả các cảnh giới, dù là người, thú hay chư thiên. Trí tuệ của Ngài thâm sâu và uyên bác hơn chúng tôi. Vì thế tất cả chúng tôi đều đảnh lễ Ngài.”
“Bởi vì chư thiên có được thiên nhãn và thiên nhĩ, nghe xa và biết rõ những điều phải lẽ trái trong cảnh người hơn là chính con người”, Ngài Acharn hỏi, “có cách nào chư thiên thuyết phục họ làm lành và cảnh báo họ không nên làm điều ác không? Hình như chư thiên có thể giúp họ, hơn là để chính họ tự giúp lấy họ.”
“Trong thực tế, không có cách nào giúp họ”, vị Trời trưởng đoàn trả lời, “quả thật rất hiếm hoi có được người như Ngài trong cảnh người. Ngài đã ban rải năng lực của tâm từ đến tất cả chúng sanh trong tất cả cảnh giới, bao gồm người, trời, cho cả chúng sanh trong cảnh giới thấp kém. Bao nhiêu người biết rằng có những chúng sanh khác nhau trong những cảnh giới thô và tế khác nhau? Con người không thể nghe lời những chúng sanh mà trọn đời họ không bao giờ thấy. Nếu có những diễn biến có vẻ huyền bí hay kỳ diệu xảy ra thì tức khắc họ quy trách rằng đó chỉ là chuyện ma quái, làm cho những gì chúng tôi muốn giúp trở thành vô dụng. Con người phải nhận lãnh số phận của họ. Chính chư thiên cũng chưa tự mình giải thoát ra khỏi vòng đau khổ. Chứ không thì họ đã nhập Niết Bàn rồi.”
^^^
54. Thái độ của chư thiên đối với con người
“Chư thiên có phải chịu đau khổ như những chúng sanh khác không? Chư thiên có biết làm cách nào để chứng đắc Niết Bàn sau khi nghiệp của họ chấm dứt không?” Ngài Acharn hỏi.
“Tất cả những vị đã trở thành Phật và đã dạy thế gian, chỉ dạy có một điều là làm thế nào chấm dứt đau khổ, thành tựu Niết Bàn,” vị trời trưởng đoàn trả lời. “Các Ngài không dạy cách sống để tự chôn vùi trong đống khổ đau. Phần lớn các trường hợp, rõ ràng con người để ngoài tai Giáo lý về Niết Bàn bởi vì họ vẫn đang miệt mài chìm đắm trong những trò chơi của họ. Chư thiên có nghe nhiều vị Phật thuyết giảng về Niết Bàn, đã khắc ghi tôn trí giáo lý ấy trong tâm, nhưng không thoát ra khỏi luồng nghiệp đã cột chặt họ vào cảnh trời, và như vậy chưa thoát ra khỏi vòng sanh tử triền miên. Ngày nào mà còn một hạt giống nghiệp bên trong một chúng sanh, ngày ấy còn đau khổ ở một mức độ nào đó. Điều ấy tùy theo bản chất của Nghiệp.”
“Có nhiều người có khả năng giao tiếp với chư thiên không?” Ngài Acharn hỏi.
“Có vài người”, vị chư thiên trưởng đoàn trả lời, “nhưng không nhiều. Phần lớn những vị ấy là các tỳ khưu sống ẩn dật trong rừng sâu, nội tâm của các Ngài đã được trau dồi và phát triển như của chính Ngài. Cũng có vài thiện tín cư sỹ đủ khả năng làm như vậy, nhưng còn ít hơn nhiều so với các vị tỳ khưu. Những vị thiện tín ấy đã toàn tâm thực hành Giáo Pháp và thanh lọc được tâm. Không thì họ không thể biết hay thấy cơ thể vật chất của chư thiên, mặc dù vẫn còn thô và trông thấy được đối với các vị cùng ở trong một cảnh giới, nhưng quá vi tế và không thể trông thấy đối với cặp mắt của người thường.”
“Mùi hôi thoát ra từ thân người có làm cho quý vị ghê tởm và khó chịu không? Quý vị thường đến viếng tôi mà không thấy ghê tởm khó chịu vì mùi hôi của thân tôi, vì sao vậy?”
“Một người mà đời sống được dưỡng nuôi trong Giáo Pháp không bao giờ làm cho chúng tôi ghê tởm,” vị chư thiên trưởng đoàn trả lời. “Người như vậy tỏa ra một mùi thơm làm cho người ta kính trọng, và luôn lôi cuốn chúng tôi mãi mãi đến gần. Không bao giờ chúng tôi mệt mỏi hay nhàm chán khi đến viếng thăm và lắng tai nghe những lời dạy của một người như thế.
“Mùi của người ác, người tránh xa Giáo Pháp và giới luật, quả thật là ghê tởm. Người như thế nhắm mắt bịt tai trước giá trị của Giáo Pháp, vốn là tối thượng trong toàn thể Tam Giới. Thân của họ phát ra mùi hôi tanh khó chịu và thậm chí gây buồn nôn. Không có vị trời nào nghĩ đến việc kết hợp thân cận với những người như thế.”
Những mẩu chuyện về chúng sanh vô hình mà Ngài Acharn thuật lại không bao giờ không làm cho các đệ tử chú ý, làm cho họ quên cả thời giờ và mệt nhọc. Họ thường ước mong có khả năng làm được như vậy và thật sự cố gắng thực hiện những gì Ngài Acharn đã làm. Mỗi khi Ngài Acharn kể lại những sự kiện đã xảy ra trong một kiếp quá khứ của Ngài hay của ai khác để làm đề tài cho những bài học về giới, trong người nghe lại có tham vọng nóng bỏng muốn biết tiền kiếp của mình đến nỗi quên cả mục đích căn bản của mình là Chấm Dứt Đau Khổ. Chỉ có chánh niệm và trí tuệ mới có thể làm ngưng lại lòng ham muốn hoang dại đặt những chuyện “xa xưa” ấy lên trên mục tiêu Giải thoát. Hồi nhớ quá khứ có thể đưa con người đến tình trạng mất trí, nếu để cho mình mơ mộng chìm đắm trong những câu chuyện đó dù cảm kích thế nào cũng không thể tái diễn trở lại. Do đó, hạnh tự tiết chế hay chánh niệm hợp với trí tuệ là điều quan trọng.
^^^
55. Bản chất tự nhiên của chúng sanh vô hình
Khi Ngài Phra Acharn Mun thuật lại cho các đệ tử về những cuộc viếng thăm của các chúng sanh vô hình, nghe thật là thích thú, đặc biệt là khi Ngài đề cập đến những nhóm chúng sanh tương tự như cảnh người. Ngài nói có một nhóm rất giống xã hội loài người. Ma và quỷ có hai hạng khác nhau, hạng có bẩm tính xấu và hạng có bẩm tính tốt. Nếu so sánh những chúng sanh có bẩm tính xấu với thế gian của chúng ta thì họ được gọi là côn đồ. Đó là những chúng sanh hung bạo và những kẻ phá rối an ninh phải bị nhốt trong cái mà chúng ta gọi là nhà tù. Chúng được xếp hạng theo nam hay nữ và theo bản chất của tội ác, bị nhốt vào những phòng giam đông đúc với những người giống nhau. Như vậy, có phòng giam cho ma côn đồ phái nam, và có phòng giam cho ma côn đồ phái nữ, và có nhiều phòng giam cho hạng ma côn đồ vi phạm trọng tội và hạng hung bạo. Thoạt nhìn vào gương mặt, đủ thấy họ không bao giờ thọ nhận được một tia mát tâm từ nào.
Như trong cảnh người, những chúng sanh này có thị trấn riêng của họ. Thị trấn này khá rộng lớn, và cũng như các thị trấn ma khác, mỗi nơi có người lãnh đạo để canh chừng họ. Cũng có một số khá đông ma có bẩm tánh tốt, hướng về hành động tạo phước. Vì có nhiều nghiệp tốt được tích trữ, hạng ma có bẩm tính tốt này được cả hạng côn đồ và hạng thường kính trọng do kho phước báu lớn lao của họ. Trong những cảnh này, được nể sợ và tôn kính là do định luật tự nhiên chứ không vì cố ý nịnh bợ hay giả bộ kính trọng.
Ngài Phra Acharn nói rằng trong thế gian loài ma, hạng hung ác có ít quyền lực hơn hạng tốt. Hạng ma tốt đã có tích trữ nhiều phước báu trong quá khứ nhưng phải sa đọa vào cảnh này vì có nghiệp bất thiện xen vào trong một thời gian ngắn. Bản chất tự nhiên của họ có nhiều thiện hơn là ác, do đó họ có nhiều quyền lực để kiểm soát số đông những ma xấu số hơn họ. Không có thiên vị trong thế gian loài ma, lý do đơn giản là vì không thể có. Yếu tố phân định cao thấp hay trên dưới là biệt nghiệp của từng cá nhân. Không có luật lệ nào khác được tạo ra và ban hành như ta thấy trong cảnh người, chỉ có 119 định luật nghiệp quả ngự trị trên hết. Những quy luật của loài người như địa vị, thừa kế, dòng dõi, bổ nhiệm v.v. tồn tại trong thế gian này và cũng chấm dứt tại đây. Ngài Phra Acharn kể nhiều chi tiết hơn về những thị trấn của loài ma nhưng người viết không nhớ hết. Ngài
Acharn có thể tới thăm cảnh ma khi ngồi thiền, và cũng như trong cảnh người, khi thấy Ngài Acharn thì họ gọi nhau và cùng nhau chạy đến đảnh lễ Ngài. Vị lãnh đạo đưa Ngài đi qua các đường phố, thể hiện vẻ rất tôn kính Ngài. Vị lãnh đạo trong thị trấn này giải thích cho Ngài rằng phải nhốt hạng ma côn đồ là để ngăn ngừa họ khỏi phá rối và gây hại cho người khác. Rồi vị ấy nói rằng con người gọi họ là “ma” là “quỷ” (và liên kết những từ ấy với những gì đáng bị kinh sợ và ghê tởm), tuy nhiên, vị ấy nói, trong thực tế, họ chỉ là một loại chúng sanh cũng giống như bất luận chúng sanh nào khác, trong một cảnh giới khác.
^^^
56. Đi Ubol Rajathani
Giờ đây Ngài Phra Acharn đã ở lại thị trấn Nakhorn Phanom một thời gian khá lâu để dạy dỗ và đào luyện các vị tỳ khưu và sāmaṇera, Ngài không thể không nghĩ đến việc trau dồi tâm mình, vốn chưa đạt đến giai đoạn cùng tột. Điều này làm cho Ngài nhận định rằng sức mình chưa đủ để gánh vác một gánh nặng như vậy. Vì giúp đỡ người khác mà việc phát triển nội tâm của chính mình đã bị trì hoãn. Nhìn lại và đánh giá pháp hành của mình từ lúc trở lại vùng Trung bộ Thái Lan lần thứ nhì, Ngài nhận thức rằng tiến bộ thành đạt quá ít so với mức chuyên cần tinh tấn trong thời gian qua. Cần phải có một thời gian ẩn tu hoàn toàn cô tịch nếu muốn thành tựu Mục Tiêu Cùng Tột. Một khi đã đạt được mục tiêu ấy, ắt không còn mất thời giờ lo lắng gì nữa về chuyện này, và Ngài sẽ dành trọn vẹn thời gian để giúp người khác cùng chứng đắc như Ngài.
Ngài Phra Acharn đã làm lễ xuất gia cho mẹ để bà trở thành nữ tu sỹ (tức nữ tu sỹ mặc áo trắng), và bà đã ở với Ngài trong sáu năm. Ngài không thể không lo lắng cho mẹ và vì thế phải tạm hoãn cuộc “du phương ẩn dật.” Sau cùng Ngài quyết định đưa mẹ về ở tại thị trấn Ubol Rajathani, bà sẵn sàng chấp nhận. Ngài đi Rajathani bằng đường tắt, xuyên qua vùng đồi núi của quận Noong Soong và Kamja-ee. Ngài tới quận Derng Noktha gần Nakhorn Phanon. Cùng đi với Ngài có mẹ Ngài và một số đông tỳ khưu và sāmaṇera. Năm đó Ngài an cư kiết hạ tại làng Nong Khorn, trong quận Amnard Jaroen, thị trấn Rajathani cùng một nhóm đông tỳ khưu và sāmaṇera. Trong thời gian nhập hạ, Ngài dành nhiều thì giờ để dạy cả thiện tín cư sỹ cũng như chư vị tỳ khưu và sāmaṇera. Kết quả là có rất nhiều người hết sức cảm kích với các thời Pháp thoại, tự nguyện đặt mình dưới sự dạy dỗ và hướng dẫn của Ngài.
^^^
57. Linh ảnh thấy các loại đệ tử
Một hôm, lúc đêm về khuya, Ngài Acharn chú tâm hành thiền. Khi tâm rút vào nhất điểm, Ngài thấy linh ảnh chư vị tỳ khưu và sāmaṇera đang đi với Ngài. Một số trong các vị ấy lặng lẽ bước theo chân Ngài một cách trang nghiêm, trật tự và tôn kính, thật đẹp và cảm kích. Nhưng có vài vị đã vượt qua, đi trước Ngài một cách trơ trẽn, vội vã và không kiềm chế. Và cũng có những vị khác bất kể trật tự, không màng dè dặt ngại ngùng, đang gấp rút vượt qua Ngài, không để ý gì đến thái độ khiêm tốn phải có của một tu sỹ ẩn dật. Rồi lại có một số những vị khác mang theo những thanh gỗ mà họ dùng để kẹp mạnh vào lồng ngực Ngài đến ngộp thở. Đó là một điềm báo. Ngài suy ngẫm và dịch như sau:
Nhóm tỳ khưu và sāmaṇera đầu tiên, nghiêm chỉnh bước theo chân Ngài theo trật tự và tự kiểm soát là những vị trang nghiêm và tôn kính tuân hành những lời dạy của Ngài, những vị mà sau này sẽ giúp bảo tồn và gìn giữ giáo huấn của Đức Phật để trao truyền lại cho hậu thế. Những vị này cũng có khả năng duy trì và bảo tồn truyền thống Thực Hành Cao Thượng và sẽ được cả trời và người tôn sùng kính mộ. Những vị đã vượt qua Ngài và đi trước một cách vô trật tự và không tự kiềm chế là những người tự xem mình hơn Ngài, không cần phải làm theo những gì đáng ra họ phải làm. Họ sẽ có những hành vi gây tổn hại cho chính họ và cho những người khác liên quan, và họ sẽ làm những điều đi ngược với giáo huấn của Đức Phật và như thế, truyền bá những gì tệ hại như độc dược. Nhóm đệ tử đang gấp gáp mưu toan vượt qua Ngài là những người, tương tự như nhóm trước, bắt đầu đi lệch ra khỏi Đạo Lộ và về sau sẽ giúp cho nhóm trước làm cho Phật Giáo suy bại. Nhóm đệ tử sau cùng, dùng những thanh gỗ làm kẹp để ép ngực Ngài, do chểnh mảng không trau dồi tâm đã rơi vào ác đạo đến độ quay lại chống thầy tổ của chính mình.
Về nhóm sau cùng này, Ngài Acharn nói rằng Ngài biết rõ tên từng người. Trước kia họ là đệ tử của Ngài, đã nhập hạ ở một nơi cách đó không xa mà Ngài đã cho phép. Trước kia họ biết vâng lời và trong thực tế đã sâu xa tôn kính Ngài, như thế không thể làm những điều như thấy trong linh ảnh. Ngài không nói những điềm báo ấy với ai nhưng bắt đầu tỉ mỉ quan sát thái độ các đệ tử.
Chỉ trong vài ngày sau, phần cuối cùng của điềm mộng đã trở thành sự thật, đúng như Ngài đã dịch. Viên thống đốc tỉnh cùng đi với một số chức sắc trong chính quyền và hai vị tỳ khưu đến viếng thăm Ngài. Trong hai vị tỳ khưu có một vị đúng thật là Acharn và là đệ tử của Ngài. Điều quan trọng là trong điềm mộng mấy hôm trước, vị này là trưởng nhóm những vị cố gắng làm hại Ngài. Mục đích của cuộc viếng thăm này, không phải để tìm hiểu Giáo Pháp như những người khác, mà là để mời hợp tác kêu gọi dân chúng quyên tiền vào việc xây cất hai hoặc ba ngôi trường học cho trẻ em trong tỉnh. Họ biết rằng Ngài Acharn có nhiều uy tín và được dân chúng kính mộ thâm sâu, với sự hợp tác của Ngài, số tiền mà họ có ý muốn lạc quyên sẽ rất lớn.
(Nên ghi nhận nơi đây rằng Ngài Phra Acharn Mun chưa bao giờ làm, và sẽ không bao giờ làm những chuyện ấy – liên quan đến công việc xây dựng và quyên tiền xin dân chúng đóng góp công của – bởi vì Ngài là một tỳ khưu). Khi biết được mục đích của cuộc viếng thăm, Ngài nhận ra rằng hai vị tỳ khưu này, trong điềm mộng, đã cố gắng mưu hại Ngài về mặt vật chất. Về sau, Ngài kêu hai vị ấy đến gặp Ngài và dạy họ những gì là bổn phận và trách nhiệm, và những gì không phải là nhiệm vụ của một vị tu sỹ ẩn dật (là người phải chiến đấu trau dồi định và tuệ chứ không phải cái gì khác), không nên hành động như hai người đã làm. Người tu sỹ phải như vậy để chặt chẽ tự kiểm soát và giữ chánh niệm, là cái mọi người trông đợi ở một tu sỹ ẩn dật.
Câu chuyện này được thuật lại nơi đây cho thấy cái tâm được trau dồi và thanh lọc thì quyền năng thế nào. Một cái tâm như thế có khả năng biết những gì được giữ kín cũng như những gì được phơi bày rõ ràng, điều gì sẽ xảy ra trong tương lai, điều gì đang xảy diễn, và điều gì đã xảy ra. Chuyện cho thấy rõ ràng rằng tâm đã được rèn luyện và thanh lọc chính tự nó là Giáo Pháp và không thể có những suy nghĩ thiên về lợi ích trần gian. Do đó, lời nói cũng như tâm của Ngài Acharn đã trong sạch, lìa khỏi mọi sai trái, và luôn luôn là biểu hiện của hiểu biết xuyên thấu và trí tuệ sáng suốt, không bao giờ có ý gây tổn hại cho bất kỳ ai.
Câu chuyện trên do Ngài Phra Acharn kể lại cho một nhóm đệ tử thân kín và nếu tiết lộ ra đây có gì không thích đáng thì người viết xin quý độc giả tha lỗi.
^^^
58. Ép suy nghĩ vào kỷ luật - Hai hạng đệ tử
Những mẩu chuyện về cuộc đời và về nhiều khả năng khác nhau của Ngài Phra Acharn Mun, nhất là những khả năng thần thông hay còn gọi là siêu nhiên đáng được ghi lại trong thời hiện đại, thực dụng của Phật Pháp. Những khả năng đó vừa tuyệt diệu vừa duy nhất. Lối sống và phương pháp giáo huấn của Ngài cũng không kém phần kỳ diệu và có một không hai.
Trong lúc dạy, có khi Ngài nói thẳng, lắm lúc chỉ gợi ý cho hiểu ngầm về cả phương diện thiện và bất thiện. Từ khi có chuyện xảy ra tại động Sarika với vị tỳ khưu già, Ngài thận trọng hơn khi chỉ trích sai lầm trong suy nghĩ của người khác, kể cả với tư cách là người giáo huấn và rèn luyện, muốn giúp người ấy không nên ôm ấp những suy nghĩ nguy hại. Nhưng đôi khi, trong ý muốn giúp người, nói thẳng cho họ biết rằng một suy nghĩ sai lầm như thế có hại cho họ thế nào thì mỉa mai thay lại có thể có hại nhiều hơn có lợi. Người được cho biết về sự sai lầm của họ không phải lúc nào cũng tận dụng được lời chỉ dạy mà trái lại, cảm thấy bị tổn thương nặng nề và hoàn toàn hiểu lầm ý mình. Dù không nhắc đến tên ai, chỉ nói một cách gián tiếp, người ấy vẫn cảm thấy bị tổn thương và không thể chịu được. Một lời khuyên dạy hay gợi ý phải được hết sức thận trọng suy ngẫm và nêu lên đúng lúc, đúng đối tượng. Một thí dụ vô tình gây tổn thương khác là trình diện một người phụ nữ đến chư tỳ khưu và các vị Phật tử đang thực hành mà không thông báo cho các vị biết trước.
Đó là phần lớn các đề tài mà Ngài Acharn thường áp dụng để giảng dạy, trực tiếp và gián tiếp, nhằm ít ra cũng ngăn ngừa những suy nghĩ như vậy lan tràn. Có những loại tư tưởng khác, mặc dù cũng là không đúng đắn và bất thiện, nhưng ít tổn hại hơn và đôi khi được bỏ qua.
Giờ giáo lý là tối quan trọng nên lúc ấy cả giảng sư và thính giả cần tuyệt đối trật tự và thanh tịnh để thâu hoạch trọn vẹn lợi ích của bài giảng. Nếu vào lúc ấy có người dám đùa giỡn với một suy nghĩ bất thiện thì một tai hại “sấm sét” sẽ giáng xuống bất ngờ và “người liều lĩnh” ấy sẽ kinh hồn và tất cả những người khác cũng run rẩy lo âu. Danh tính ít khi được nêu lên, chỉ có suy nghĩ sai quấy được phơi bày trong cuộc họp, và như thế cũng đủ làm cho máu lạnh chạy khắp người cả gan liều mạng.
Loại sấm sét này quả thật rất công hiệu như “cái phanh”, chặn đứng những suy nghĩ lầm lạc, và có tác dụng như “đạp ga”, tăng cường sức mạnh chánh niệm và tự kiểm soát. Có những người hoàn toàn rút vào trạng thái nhất tâm, tâm lắng dịu khá nhiều khi suy nghĩ phóng dật bị chặn đứng. Bằng cách ấy, người nghe buộc phải cố gắng tự kiểm soát, hay chính xác hơn, phải kiểm soát suy nghĩ tốt nhất có thể. Nếu không làm vậy “sấm sét” sẽ bất ngờ giáng xuống, và cũng giống như gà lạc bầy bị diều hâu tinh mắt xà xuống quắp đi mất. Nhờ khả năng đặc biệt này của Ngài, những người có thể chịu đựng kỷ luật khắt khe này củng cố được suy nghĩ và cảm xúc, cũng như hành động và lời nói trong quá trình trau dồi tâm. Càng ở lâu với Ngài, càng hấp thụ được đường lối thực hành và sự chứng đắc thâm sâu của Ngài.
Có một số vị đệ tử tự đặt mình dưới sự huấn luyện của Ngài giống như mảnh vải dơ bẩn, rách rưới mà Ngài phải giặt sạch và vá lại. Những vị ấy lúc nào cũng rút được bài học từ những lời khuyên dạy của Ngài để luôn quan sát và tuân theo đường lối tu tập của Ngài. Những vị chuyên cần và quyết tâm không bao giờ thất bại mà vững vàng tiến bộ cho đến khi nội tâm phát triển vững chắc. Ngược lại, có những vị không thọ hưởng lợi ích của duyên may được ở gần và nghe những lời khuyên dạy của Ngài. Họ đặt những gì xảy diễn bên ngoài lên trên những thành quả nội tâm, thí dụ như họ quá lo lắng, sợ bị quở rầy vì không kiểm soát được suy nghĩ và quá sợ hãi khi thực sự bị la rầy. Những vị ấy không cố gắng tự sửa mình mà quá lo sợ và quên rằng những lời quở rầy và cách đối xử có vẻ quá thô bạo ấy là vì sự tiến bộ và chứng đắc của chính họ, không phải cho Ngài.
Hạng người thứ hai vẫn mang theo họ lối sống, suy nghĩ, lời nói v.v. cũ. Thậm chí, dưới sự hướng dẫn của Ngài, họ không bao giờ từ bỏ những thói quen cũ ấy và không bao giờ lãnh hội và nếm được chút hương vị nào của những lời giáo huấn. Lúc từ giã Ngài, họ ra đi trong tình trạng giống như khi họ đến, không có gì thay đổi, không có gì tốt hơn mà có lẽ còn xấu hơn trước. Những người như thế không thể huấn luyện và không thể cải hóa. Dù ở với Ngài bao lâu, một điều rõ ràng là họ giống như cái muôi nằm trong nồi cà ri thơm ngon mà không biết gì đến hương vị thơm ngon của cà ri. Và như cái muôi mà người ta bỏ vào nồi này đến nồi khác, những vị ấy không bao giờ nghĩ đến trau dồi tâm để tự tiến bộ, và mãi mãi bị ném vào vô vàn đau khổ khác nhau, cái ném họ chìm đắm trong đau khổ không phải là gì khác hơn là chính những ô nhiễm của họ: khát vọng, sân hận, tham ái và vô minh.
^^^
59. Voi đầu đàn đơn độc trong rừng sâu
Trong mùa nắng ráo ấy, Ngài Phra Acharn đưa mẹ trở về quê của bà. Trên đường đi, đôi khi ngừng nghỉ lại một đêm, lúc thì mỗi nơi nghỉ lại vài ba đêm. Cuộc hành trình không có gì gấp rút, và dần dần cuối cùng cũng về đến nơi. Tại đây, Ngài lưu lại một thời gian thích hợp để giảng dạy cho mẹ và những vị thiện tín cư sỹ khác. Ai nấy đều hoan hỷ với những bài giảng và những lời dạy của Ngài. Rồi Ngài giã từ mẹ và những vị thân bằng quyến thuộc để lên đường, mở một cuộc du hành khác của vị đạo sỹ du phương, hướng về miền trung Thái Lan. Đây đúng thật là cuộc du hành của một vị đạo sỹ hành hạnh đầu đà, đơn độc một mình và không cần hối hả. Tại một xóm làng hay tại một nơi có đủ thức ăn và nước uống, Ngài sẽ dừng lại một đêm, treo chiếc klod (chiếc dù của người tu hành hạnh đầu đà) dưới bóng một cội cây. Ngài sẽ lưu lại nơi đó vài ngày để hành thiền định và thiền tuệ, và khi đã nghỉ đủ thì lại lên đường, tiếp tục cuộc đi bộ, bởi vì vào thời bấy giờ chỉ có xe lửa là phương tiện chính, quốc lộ rất hiếm hoi.
Đối với vị tỳ khưu hành hạnh đầu đà thì không có gì phải vội vàng bởi vì đối với Ngài “thời gian” là không tồn tại, theo nghĩa không cần phải hối hả và chen lấn như trong cuộc sống đô thị. Mục đích chính của Ngài là quán chiếu nội tâm. Đi bộ suốt ngày là trau dồi và phát triển thiền tuệ trọn ngày. Cuộc hành trình theo lối hành hạnh đầu đà của Ngài Phra Acharn Mun chuyến này giống như cuộc đi thênh thang bất định của một con voi đầu đàn đơn độc giữa rừng sâu. Sự đơn độc như vậy lúc nào cũng đưa đến trạng thái thanh bình tĩnh lặng. Tất cả mọi gánh nặng đã được đặt xuống, tất cả gai nhọn đã được nhổ khỏi tâm. Cả thân lẫn tâm nhẹ nhàng thơi thới. Trong khi thân rảo bước xuyên qua những cánh đồng nóng cháy xen lẫn giữa cụm rừng thì tâm trọn vẹn chăm chú vào đề mục hành thiền, không màng hay biết sức nóng của mặt trời giữa trưa đứng bóng. Môi trường nào cũng tạo ra một không khí tinh thần mát mẻ và tĩnh lặng. Ngài mang trên vai cái túi đựng bình bát và cái klod. Tấm y mà Ngài không mặc, bình lọc nước, kim chỉ và những vật dụng cần thiết để trong bình bát. Ấm nước thì cầm trên tay. Tâm không để ý đến tất cả những món đồ kềnh càng và nặng nề ấy. Thân và tâm nhẹ gánh lo âu như vậy giờ đây an hưởng sự đơn độc, nhẹ nhàng thơi thới như chiếc bông gòn bay theo chiều gió. Ngài đã làm tròn bổn phận đối với mẹ, đã giúp bà vững vàng phát triển nội tâm. Giờ đây không còn trách nhiệm nào khác, ngoại trừ tự mình phát triển nội tâm đến mục tiêu cùng tột. Ý nghĩ này như nhắc Ngài trong khi đơn độc thong dong trên con đường mòn xuyên qua khu rừng hoang vắng.
Sau khi đi khá lâu trong sức nóng cháy da như thế, đôi khi Ngài gặp một vài cội cây cao bóng mát bên đường, mời khách lữ hành dừng chân. Nơi đây Ngài ngồi dưới bóng mát của cội cây, tâm an trụ vào đề mục hành thiền cho đến khi cảm thấy mát mẻ khỏe khoắn trở lại và sẵn sàng tiếp tục cuộc đi. Bấy giờ trời đã xế chiều và nắng đã dịu dần, Ngài tiếp tục lên đường với tâm tự kiểm soát của người mà mục tiêu của cuộc sống chỉ là tự giải thoát ra khỏi Bánh Xe Đau Khổ. Đi với chánh niệm và tâm tự kiểm soát, Ngài đến một ngôi làng nhỏ hiu quạnh giữa rừng. Một xóm làng thưa thớt như vậy cũng đủ cho vị tu sỹ dhūtaṅga, vì Ngài chỉ độ thực để bảo trì mạng sống, không bao giờ tìm thỏa mãn khẩu vị hay để thân mình trở nên khỏe đẹp. Sau khi ghi nhận địa điểm của ngôi làng Ngài tìm một nơi thích hợp để nghỉ qua đêm, tốt nhất là ở cách xóm một quãng. Sáng hôm sau Ngài vào làng trì bình, và sau khi ăn xong lại tiếp tục cuộc hành trình.
Bằng cách ấy, Ngài di chuyển từ một nơi hoang vắng này đến một nơi hoang vắng khác, đi bộ cả ngày cho đến khi đến một làng, rồi dừng lại nghỉ qua đêm. Một cuộc du hành như vậy là bình thường, không có gì đặc biệt xảy ra. Nhưng có lúc vị tỳ khưu hạnh đầu đà lạc đường trong rừng sâu hoặc đi bộ ròng rã suốt ngày mà không gặp xóm làng, cả đến một mạch nước hay một dòng suối để làm dịu bớt cơn khát cũng không có. Có những lúc còn tệ hơn nữa, vị tỳ khưu đi bộ suốt mấy ngày mà không có thức ăn, nước uống, và đôi khi cũng không ngủ. Nhưng tâm thấm nhuần Giáo Pháp có thể làm cho thân chịu đựng nhiều đau khổ và khó nhọc hơn là nếu dựa vào, và do vậy, phải làm nô lệ cho vật chất. Ngài dừng chân nghỉ lại vài ngày ở những nơi thích hợp cho việc phát triển tâm, còn những nơi khác không mấy thích hợp, Ngài ở lại một đêm rồi tiếp tục cuộc hành trình.
Trong khu rừng Dong Phyā Yen nằm giữa thị trấn Saraburi và Nakhorm Rājasīmā, Ngài Acharn Mun nói rằng Ngài cảm động đến sững sờ trước vẻ đẹp của cảnh rừng núi. Nơi đây Ngài lưu lại lâu dài hơn để phát triển tuệ minh sát và để tâm uống vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng.
Núi đầy thú đủ loại, hiền hòa và hung dữ, loại ăn cỏ và loại ăn thịt, lớn và bé, loại sống trên cây và loại sống dưới mặt đất. Nhiều lần Ngài chạm mặt với chúng, nhưng hình như chúng không quan tâm đến Ngài. Khu rừng này quả thật hoang vu, mỗi xóm chỉ có vài ba ngôi nhà, ở rải rác cách nhau khá xa. Dân cư là những người miền núi, chuyên trồng lúa và một số loại ngũ cốc khác để sanh sống. Họ ở dọc theo dãy đồi và núi. Chính những người này hộ trì và để bát cúng dường hàng ngày trong khi Ngài du hành qua rừng. Dân làng có nhiều người sùng đạo. Họ cũng là những người thợ săn vì vùng này có nhiều thú rừng đủ loại. Ngài ở đây rất thoải mái vì họ không thường tới lui làm ảnh hưởng đến Ngài. Mỗi người đều nhận định rằng ai cũng có trách nhiệm riêng phải làm, mỗi người đều tôn trọng sự riêng tư của người khác.
Từ khu rừng Dong Phyā Yen, Ngài tiếp tục cuộc hành trình xuôi về hướng Nam, và sau cùng đến Bangkok, lưu lại tại Wat Pathoomwan.
^^^
60. Ở Bangkok và sau đó đi Chiengmai
Ngài Acharn đã nhiều lần du hành giữa Bangkok và các tỉnh miền Bắc. Đôi khi Ngài đi bằng đường xe lửa – mà lúc bấy giờ không có đi xa như ngày nay – và có những lần khác Ngài đi bộ, cả hai chiều. Trong thời kỳ Ngài nhập hạ tại Wat Pathoomwan, Ngài thường tới học Giáo Pháp với Ngài Phra Upāli Gunupamacaria của Wat Borom Nivas.
Trong mùa nắng ráo sau thời kỳ an cư kiết hạ, Ngài Phra Upāli đi Chiengmai, và mời Ngài Phra Acharn Mun cùng đi. Trên xe lửa Ngài Acharn Mun nhập định trong phần lớn chuyến đi, chỉ ngủ đôi chút lúc xe chạy ở giai đoạn đầu cuộc đi. Đến thành phố Uttaradit, lúc sắp vào vùng núi, Ngài quyết định nhập định cho tới khi xe đến một nơi gần Chiengmai. Khoảng hai mươi phút sau đó, tâm của Ngài đủ an trụ để nhập vào trạng thái nhất điểm không lay chuyển, toàn định (appaṇā samādhi). Trong trạng thái này Ngài không còn hay biết gì đến đoàn tàu hay môi trường bên ngoài, tiếng rầm rập của đoàn tàu hay tiếng huyên náo của hành khách, không còn biết đến suy nghĩ hay cảm xúc, cả đến thân thể của chính mình cũng không hay biết. Chỉ có trạng thái an tĩnh vững chắc bao trùm tâm. Đến khi xe gần tới thành phố Chiengmai, tâm Ngài mới xuất ra khỏi trạng thái an tĩnh nhẹ nhàng tuyệt diệu ấy. Mở mắt ra Ngài thấy nhà cửa và nghe tiếng ồn ào bận rộn của Chiengmai bao quanh. Ngài đứng lên để lấy hành lý và thấy những hành khách đi cùng toa xe, ai cũng nhìn Ngài tò mò và thán phục. Hình như tất cả các cặp mắt, trong đó có cặp mắt của nhân viên các toa xe, đều chăm chú nhìn Ngài, rất đỗi kinh ngạc. Vừa lúc ấy có nhân viên trật tự của xe lửa không biết từ đâu xuất hiện, vui vẻ quây quanh Ngài và xin xách hành lý cho Ngài. Các nhân viên và hành khách cùng toa xe đứng nhìn theo cho đến khi không còn nhìn thấy Ngài nữa.
Trước đó có một số hành khách và nhân viên trật tự của xe lửa hỏi thăm Ngài tu ở chùa nào, từ đâu đến và định đi về đâu. Ngài nói với họ rằng Ngài là một tỳ khưu sống trong rừng, không ở cố định một tu viện nào, và cũng nói thêm rằng Ngài muốn tìm một nơi vắng vẻ trên núi hoặc trong rừng, không quá xa thành phố. Ý những người hỏi là muốn biết Ngài sẽ về chùa nào và có ai đến nhà ga để rước Ngài không. Ngài ngỏ lời cảm tạ lòng tốt của họ và nói rằng mình đi chung với Ngài Phra Upāli Gunāpamācariya, và chắc chùa có sắp xếp cho người đến đón hai Ngài. Ngài Upāli là một vị Sư nổi tiếng trong thành phố này và được tất cả mọi người tôn sùng kính mộ, từ vị thống đốc đến các thương gia và dân cư trong thành phố. Như vậy sẽ có đông người đến đón mừng Ngài tại nhà ga. Cũng có một số xe hơi mà vào thời điểm đó còn rất hiếm hoi. Những người đến đón mừng Ngài Acharn Upāli sẽ cung thỉnh Ngài về tu viện Chedi Luang. Nơi đây sẽ có đông đảo thiện tín đến thăm viếng và nghe Ngài thuyết giảng Giáo Pháp.
^^^
Không có nhận xét nào