Mae Chee Kaew
Hành trình tới giác ngộ và giải thoát
Mục lục
Phần 1Phần 2
Phần ba - Cốt lõi
Đường nghiệp gặp nhau
Dấu hiệu của Pháp
Cái xác trong mình
Hay biết tự nhiên
Cốt lõi lung linh
Sến đỏ nở rộ
Phần bốn - Thanh tịnh
Sông và đại dương
Ơn sâu
Cam kết trọn đời
Sự thanh tịnh của tâm
Lời kết
Những bài pháp sưu tập được
Về tác giả
^^^
P h ầ n b a
Cốt lõi
Khi thấy sự bướng bỉnh
trong bản thân mình, người
có trí nhận ra sự bướng bỉnh.
Thấy tối, họ nhận ra tối.
Thấy si mê, họ nhận ra si mê.
Họ tìm lỗi lầm của chính mình;
họ không tìm lỗi của người khác.
Đường nghiệp gặp nhau
Mae Chee Kaew tăng gấp đôi nỗ lực. Cô luôn bắt đầu việc hành thiền bằng quyết tâm hướng chú ý của mình vào bên trong và tập trung ở đó, giữ nó ở trong tâm. Nhưng đối với Mae Chee Kaew, tập trung vào bên trong có nghĩa là bước vào trạng thái rơi tự do của tâm. Ngay khi vừa nhắm mắt lại, phần người dưới rời ra và cô thấy mình rơi vào không trung như thể rơi từ trên núi cao, hoặc rơi xuống giếng sâu. Những hình ảnh rời rạc vụt hiện lên vài khoảnh khắc, và sau đó là sự tĩnh lặng, bình an, mãn nguyện hoàn toàn… Nhưng ẩn giấu bên dưới sự tĩnh lặng là quán tính gần như đã trở thành phản xạ mà chẳng bao lâu sau lại bật dòng tâm thức của cô quay về cõi của hình ảnh rời rạc. Lưu lại trong thế giới tinh thần dễ thay đổi này, Mae Chee Kaew cảm thấy như ở nhà. Cô đã biết được cách đi những con đường nhỏ đầy bí ẩn đó một cách dễ dàng. Theo sau giây lát ghi nhận, một hiện hữu, một cảm xúc, một tâm thức vô hình, cô lại đắm chìm vào một thế giới khác, vô số các cõi chúng sinh hữu tình. Ước muốn muốn hiểu được sự thật đã đưa cô quan sát những chiều cao và chiều sâu mới của chúng sinh còn luân hồi. Liên tục quan sát, cô nhận thấy hình dáng của chư thiên, cách chư thiên nói chuyện và thói quen, tục lệ và lòng tin của họ. Tập trung thiên nhãn một cách sắc bén, cô nghiên cứu thế giới quỷ thần để hiểu biết sâu sắc hoặc lần ra manh mối giúp cô khám phá sự thật trong lời dạy của Đức Phật. Một lần nữa, cô lại là nạn nhân của xu hướng hướng ngoại của tâm mình.
Khi cô vật lộn một mình để củng cố sâu sắc thiền tập, Mae Chee Kaew không biết rằng một trong những đệ tử gần gũi của Ajaan Mun vừa đạt tới giai đoạn cuối cùng nhận ra thực tánh Pháp, và rằng đường nghiệp của họ sắp tới sẽ gặp nhau.
Ajaan Mahā Boowa Ñāṇasampanno đến dãy Núi Phu Phan sau lễ hỏa táng của Ajaan Mun. Sau vài ngày leo núi, ngài đã đến được Wat Doi Dhammachedi, ngọn núi nơi Ajaan Kongma đang an cư, nơi vài năm trước Mae Chee Kaew đã vật lộn vất vả về mặt tâm linh với tính bướng bỉnh của mình. Là một chiến binh tâm linh tuyệt vời, Ajaan Mahā Boowa đã chiến đấu với ô nhiễm trong tâm mình như thể chúng là kẻ thù không đội trời chung, không chấp nhận gì ngoài việc chúng đầu hàng hoàn toàn. Nhiều năm, thiền của ngài giống như chiến tranh, từng thời thiền ngồi như cuộc chiến đấu tay đôi, từng thời thiền đi như đấu tranh một mất một còn. Lần lượt, những kẻ thù bên trong của ngài phải thu quân, không có khoan hồng, không có bắt tù binh. Ngài vẫn truy đuổi chúng không nản lòng, tìm nguồn sức mạnh ẩn giấu của chúng. Bắt đầu với những ô nhiễm tâm rõ ràng và trở ngại nhất – lính bộ binh – ngài dọn được đường và chiến đấu theo cách của ngài cho đến khi ngài tiến tới gặp toán quân tinh nhuệ, vi tế hơn và mánh khóe lừa bịp xảo quyệt hơn, bao quanh và bảo vệ tên tướng giấu mặt của chúng, đó là nền tảng vô minh về cốt lõi chân thật của tâm ngài.
Vô minh sai sử các đạo quân của tham và sân, luôn được che đậy khéo léo ở nơi sâu kín nhất của tâm. Là kẻ chỉ huy chính của toàn bộ cõi luân hồi, vô minh được bảo vệ đến chết bởi đội quân ghê gớm của ô nhiễm tinh thần. Để giải thoát tâm khỏi phiền não đau khổ, những tên lính canh này phải bị bắt hạ vũ khí và tước bỏ sức mạnh lừa gạt của chúng. Để chọc thủng thành lũy của vô minh trong chính mình, Ajaan Mahā Boowa củng cố đội quân quan trọng nhất của mình là chánh niệm và trí tuệ, và bao vây sào huyệt của vô minh. Đối mặt với đội cận vệ bằng chánh niệm, và vô hiệu hóa chúng bằng trí tuệ, đội quân của ngài xiết chặt vòng vây quanh thành lũy của kẻ thù một cách có phương pháp. Khi tất cả các ô nhiễm tinh thần đã bị loại trừ, ô nhiễm còn lại cuối cùng trong tâm là tổng tư lệnh – nền tảng vô minh tạo ra vòng sinh tử luân hồi và làm nó quay liên tục không ngừng. Cuộc tấn công cuối cùng đã bắt đầu. Một tia chớp của sức mạnh và trí tuệ siêu việt lóe lên, vết tích cuối cùng của vô minh đã bị tiêu diệt, làm cho cả tòa nhà luân hồi sụp đổ và tan rã, để lại cốt lõi chân thật của tâm là hoàn toàn thuần khiết, không ô nhiễm. Một vị Alahán hoàn toàn giác ngộ nữa đã xuất hiện trên thế gian.
Cùng năm đó, sau kỳ an cư hàng năm, trong khi thiền, Mae Chee Kaew thấy một cảnh dự báo gồm vầng trăng và những ngôi sao bao xung quanh rơi từ trên trời xuống. Cô diễn giải cảnh đó là một vị thiền sư xuất chúng cùng với một đoàn đệ tử tài năng sắp đến Baan Huay Sai. Cô rất phấn khích, và với tính chất của linh ảnh ấy, tin tưởng rằng vị sư này chắc là vị thiền sư mà Ajaan Mun đã nói với cô nhiều năm về trước.
Mae Chee Kaew tự tin thông báo với các tu nữ khác rằng năm tới sẽ có một nhóm sư tu hạnh đầu đà dhutanga đến, dẫn đầu là một vị thiền sư tuyệt vời. Cô vẫn chưa biết vị sư đó là ai, nhưng cô đã nhận được dấu hiệu không thể sai lệch. Cô đã so sánh việc ngài đến tương đương với thời gian Ajaan Mun dẫn theo một nhóm sư đến Baan Huay Sai khi cô còn trẻ. Vài tháng sau, như cô đã tiên đoán, có vài nhóm sư dhutanga đến và đi. Với niềm hy vọng và mong chờ, Mae Chee Kaew đi đến trú xứ trong rừng của các sư để chào và đảnh lễ. Nhưng lần nào cô cũng thất vọng ra về, chắc chắn rằng đó không phải là những vị sư xuất hiện trong hình ảnh của cô.
Tháng 1 năm 1951, Ajaan Mahā Boowa đi xuống rặng núi Phu Phan, dẫn đầu một đoàn sư dhutanga. Các sư dựng lều dưới chân núi có nhiều cây gỗ rậm rạp ở phía bắc của Baan Huay Sai. Các sư dựng lều dưới tán cây, trong hang, trên mỏm núi và dưới vách đá cheo leo, các ngài sống đơn giản và hành thiền theo truyền thống dhutanga. Ajaan Mahā Boowa chọn ở trong một cái hang trên một cạnh dốc thoai thoải của một ngọn núi, cách trung tâm làng khoảng một dặm. Ngài ở tại hang Nok An với duy nhất một vị sāmaṇera phục vụ ngài. Hang Nok An là một hang dài và rộng, nép mình kín đáo dưới một mỏm đá trồi lên, và được đá trải phẳng rộng lát ở lối vào. Khu ở mát mẻ và thoáng khí, môi trường tỏa ra sự bình an và hài hòa tự nhiên.
Khi tin Ajaan Mahā Boowa đã đến lọt tới tai Mae Chee Kaew, cô dẫn vài tu nữ leo đường núi dốc và quanh co đến gặp ngài. Khu đất cao trên đỉnh núi bằng phẳng trồi lên lớp sa thạch đen nối tiếp con đường quanh co của khu đất đến cửa hang. Gần đến lối vào, Mae Chee Kaew nhìn thấy Ajaan Mahā Boowa ngồi trên một tảng đá cuội phẳng ngay phía ngoài. Không thể kìm được niềm vui sướng, cô quay lại sau và thì thầm với nụ cười sung sướng: “Ngài đấy! Chính là vị thiền sư vĩ đại mà tôi đã kể cho các vị nghe đấy!”
Rất cẩn thận, với cử chỉ thành kính, các tu nữ tiến lại gần Ajaan Mahā Boowa. Các cô quỳ gối trước chỗ ngài ngồi và thanh nhã cúi lạy ba lần. Sau khi trao đổi xã giao, Mae Chee Kaew nói rằng đã lâu lắm rồi, khi còn là một cô bé, cô đã gặp Ajaan Mun. Cô kể tỉ mỉ cảnh tượng từ thuở bé, về việc Ajaan Mun dạy cô hành thiền thế nào, rồi sau đó cấm cô hành thiền khi không có ngài. Vì thành kính sâu đậm với Ajaan Mun cô đã không hành thiền trong nhiều năm. Chỉ sau khi trở thành tu nữ, cô mới bắt đầu hành thiền trở lại một cách tinh tấn.
Là đệ tử thân cận của Ajaan Mun, Ajaan Mahā Boowa rất thắc mắc. Tại sao Ajaan Mun lại cấm cô hành thiền? Ngay khi cô kể cho Ajaan Mahā Boowa về những linh ảnh phong phú của mình, ngài đã hiểu lý do. Khi gặp được Ajaan Mahā Boowa, Mae Chee Kaew đã chìm đắm sâu vào việc tiếp xúc những hiện tượng kỳ lạ và khác thường trong khi hành thiền định hơn mười năm rồi. Nếu cô không thấy hình ảnh gì thì cô tin rằng cô không đạt được lợi ích từ việc hành thiền. Đã hoàn toàn nghiện những chuyến du ngoạn tâm linh, cô tự thuyết phục mình rằng đó chính là con đường chân chính đi đến Niết bàn, và chấm dứt tất cả đau khổ. Ngay lập tức, Ajaan Mahā Boowa nhận ra sai lầm căn bản của cô. Nếu không có vị thiền sư giỏi để kiềm chế sự thái quá của cô, cô sẽ dễ dàng bị tâm năng động và tính ưa mạo hiểm làm hiểu sai lệch những trải nghiệm của mình và hướng cô đi lệch đến mục tiêu sai lầm. Nhưng ngài cũng biết rằng người có tâm mạnh mẽ như cô có thể tiến rất nhanh trên đường Đạo khi học được cách rèn luyện tâm đúng cách. Cũng như Ajaan Mun, Ajaan Mahā Boowa nhận ra rằng Mae Chee Kaew có thể dùng những khả năng đặc biệt của mình theo nhiều cách tuyệt vời và sâu sắc để giải thoát mình ra khỏi khổ đau và giúp các chúng sinh khác cũng làm được như vậy.
Từ đó, Mae Chee Kaew thường xuyên tới thăm Ajaan Mahā Boowa ở ngọn núi mà ngài đang an cư. Mỗi tuần một lần, lúc chiều muộn của ngày tụng giới, cô và các tu nữ ở Baan Huay Sai theo đường núi đến đảnh lễ Ajaan Mahā Boowa, rồi nghe ngài giảng một bài Pháp đầy cảm hứng. Khi ngài giảng xong, ngài hỏi các tu nữ về việc hành thiền. Mỗi lần Ajaan Mahā Boowa hỏi đến Mae Chee Kaew, cô chỉ nói về các hiện tượng đặc biệt, các loại quỷ thần khác nhau và các loại thần không thân mà cô gặp. Những cuộc dạo chơi trên thiên đàng và địa ngục cho cô hiểu biết trực tiếp về các chúng sinh khác nhau sống ở đó.
Cô tả trạng thái tinh thần của quỷ thần và tình trạng sống của họ một cách chi tiết, và nghiệp quá khứ của họ thế nào mà dẫn đến việc tái sinh ở các cõi đó. Rõ ràng là Mae Chee Kaew đã bị đắm say bởi những hình ảnh kỳ lạ này và sự hiểu biết đặc biệt chúng mang lại. Điều này làm Ajaan Mahā Boowa lo ngại. Ngài rất ngạc nhiên về khả năng thần thông đặc biệt của cô, nhưng cũng nhận ra rằng cô chưa đủ khả năng kiểm soát tâm mình để tự hành thiền một cách an toàn. Thay vì hướng sự chú ý ra ngoài để đón nhận những hiện tượng bên ngoài, ngài muốn cô học cách chú tâm chắc chắn trong thân và tâm của cô. Chỉ có cách giữ sự tỉnh giác chắc chắn ở bên trong, cô mới có thể vượt qua những ô nhiễm của tâm đang ngăn cô hành thiền tiến lên mức cao hơn.
Ajaan Mahā Boowa giải thích rằng mục tiêu đầu tiên của thiền là phát triển Chánh Định. Để thực hành định đúng, cô phải buông bỏ được những ám ảnh về ý nghĩ và hình ảnh lọt vào trong nhận thức của cô. Cô phải để tâm của mình thoát khỏi những giới hạn không cần thiết gây nên bởi thói quen tập trung vào nội dung của suy nghĩ và hình ảnh. Nhờ việc thực hành thiền định đúng đắn, cô có thể trực tiếp kinh nghiệm được bản chất biết cốt lõi của tâm. Điều này sẽ cho phép cô nghiên cứu các hiện tượng tinh thần và vật chất một cách khách quan không dính mắc. Cốt lõi biết của tâm là sự hay biết rộng lớn hơn nhiều so với việc nhận thức các hình ảnh, ý nghĩ và cảm xúc. Đó là thế giới nội tâm không bị chướng ngại, chứa đựng tất cả nhưng không giữ lại gì. Khi sức mạnh giác ngộ tâm linh này được phát triển, nó có thể được làm mới và sâu sắc vô giới hạn. Trước khi sự đột phá đó xảy ra, quá chú ý đến những hiện tượng bên ngoài làm sao nhãng khỏi mục đích ban đầu: đạt được đến cội nguồn của chính sự nhận biết.
Ban đầu, Ajaan Mahā Boowa chỉ đơn giản nghe Mae Chee Kaew kể về những chuyến du ngoạn khác thường của cô. Ngài cẩn thận đánh giá tình trạng năng lượng tâm linh của cô, và nhẹ nhàng cố gắng thuyết phục cô lái luồng tâm thức vào bên trong đến tận cội nguồn của nó. Ngài luôn lặp lại rằng nhận thức là một chức năng của tâm, không phải là bản chất của tâm. Cô phải buông bỏ nhận thức và sự biết có điều kiện của thức để cốt lõi thực sự của tâm có thể tỏa sáng.
Khi Ajaan Mahā Boowa nhận thấy rằng sau vài tuần cô vẫn lờ những lời khuyên của ngài đi, ngài nhấn mạnh rằng cô nên giữ định tâm của cô hoàn toàn tập trung ở bên trong vào một khoảng thời gian nhất định nào đó khi hành thiền. Thỉnh thoảng cô vẫn có thể hướng sự nhận biết để quan sát những hiện tượng bên ngoài. Nhưng cô cũng phải bắt tâm ở nhà vào những lúc khác. Ngài giục giã cô khẩn thiết học cách kiểm soát tâm sao cho cô có thể điều khiển dòng tâm thức hoặc vào trong hoặc hướng ra ngoài như cô muốn.
Vì những hình ảnh cô thấy liên quan đến việc tiếp xúc với các trường xúc giác bên trong, Mae Chee Kaew coi đó là những khám phá về chính tâm mình. Cô tin rằng bằng việc khảo sát những hiện tượng xuất hiện trong khi thiền định, cô có thể học được sự thật về nhận biết qua tâm thức đã nắm bắt các hiện tượng đó. Bướng bỉnh làm theo cách của mình, và không muốn thay đổi cách tiếp cận, cô bắt đầu lộ rõ việc phản đối lại lời dạy của Ajaan Mahā Boowa, lấy lý do là thiền của cô vẫn luôn cho cô sự hiểu biết và tuệ giác về bản chất thâm sâu. Cô không thấy có lý do gì phải thay đổi. Ajaan Mahā Boowa kiên trì giải thích rằng những hiện tượng cô chứng kiến được chỉ là những hiện tượng tồn tại tự nhiên trong thế gian. Chúng không hề đặc biệt hơn những gì cô nhìn được bằng mắt thường. Mặc dù những thế giới xuất hiện trong cái thấy bằng tâm của cô là các cõi giới chân thật và riêng biệt như cõi người, các cõi đó cũng chỉ là đối tượng bên ngoài đối với sự nhận biết nắm bắt được các hiện tượng này. Mặc dù các đối tượng này không phải là vật chất hữu hình mà ta có thể sờ nắm hay nhìn thấy được như các đối tượng vật chất của nhận thức, chúng vẫn tách biệt khỏi cái biết nhận biết chúng. Về bản chất, đứng từ góc nhìn của người quan sát, không có sự khác biệt giữa đối tượng vật chất và đối tượng tinh thần. Tất cả các đối tượng đều ở thế giới bên ngoài. Ngài muốn cô quay ngược hướng chú ý của mình, dừng dòng tâm thức hướng ra ngoài, phải hướng nó vào bên trong để nhận ra cốt lõi thực sự của tâm – chính là nguồn gốc của bản thân sự nhận biết.
Mae Chee Kaew tiếp tục phản đối rằng khác với mắt thường, mắt bên trong có thể nhìn thấy những thứ tuyệt vời và kỳ lạ bất thường khác. Mắt bên trong có khả năng nhìn được nhiều loại ma quỷ và các thần thức khác. Nó có thể nhìn thấy và giao tiếp với chư thiên ở tất cả các cõi trời. Nó có thể nhìn thấy các mối liên hệ với kiếp trước và có thể thấy các sự kiện trong tương lai một cách chính xác. Cô giữ lập trường rằng loại hiểu biết và hình ảnh này cao cấp hơn những cái nhận biết được bằng các giác quan bình thường.
Ajaan Mahā Boowa không chấp nhận mãi sự bướng bỉnh đó. Đột nhiên thay đổi chiến thuật, ngài yêu cầu, với một thái độ cương quyết dứt khoát mãnh liệt và mạnh mẽ, rằng cô phải ngăn tâm cô mạo hiểm hướng ra ngoài nắm bắt các hiện tượng thần linh. Sự hiểu biết sai hướng đó sẽ không bao giờ giúp cô vượt qua được những nguyên nhân sâu xa của sinh, lão, bệnh và tử. Ngài nhắc cô rằng ngài đang dạy những điều tốt cho cô, và nói rõ rằng ngài muốn lời chỉ dẫn của ngài phải được tuân theo.
Bất chấp lời khuyên dạy của Ajaan Mahā Boowa, Mae Chee Kaew thấy tự tin vào kiến thức và sự hiểu biết của chính mình tới mức cô vẫn tiếp tục hành thiền theo cách cũ, và sau đó lại tranh luận với ngài về giá trị thực của nó. Chán ngán và vô cùng mệt mỏi với thái độ không khoan nhượng của cô, Ajaan Mahā Boowa trở nên quyết liệt. Ngài lên giọng và cử chỉ mạnh mẽ khi ngài cấm cô hướng sự nhận biết ra ngoài để tiếp xúc với các hiện tượng bên ngoài. Bằng lời nói dứt khoát, ngài ra lệnh cho cô phải quay ngược sự hướng tâm và giữ tâm luôn ở bên trong vào mọi lúc. Ngài không nhượng bộ. Chỉ có cách theo sự chỉ dẫn của ngài và thực hành chăm chỉ, cô mới có thể tiêu diệt những ô nhiễm đang làm mờ tâm cô.
Vào một buổi chiều muộn nọ, vì Mae Chee Kaew tiếp tục ương bướng bảo vệ lý luận của mình, Ajaan Mahā Boowa đột nhiên không nói chuyện nữa, và đuổi cô đi khỏi chỗ ngài một cách cụt lủn. Ngài bảo thẳng cô rời khỏi hang ngay lập tức và đừng bao giờ quay lại. Dùng những từ ngữ gay gắt và mạnh mẽ, ngài đuổi cô đi trước mặt các cô tu nữ khác. Mae Chee Kaew sửng sốt trước sự mãnh liệt trong lời nói và sự nghiêm nghị trong ngữ điệu của ngài. Sự thể như thế này chưa bao giờ xảy đến với cô. Mae Chee Kaew rời hang của Ajaan Mahā Boowa trong nước mắt, cảm thấy tan vỡ hoàn toàn, niềm tin của cô bị đảo lộn. Với lời quở trách nghiêm khắc của ngài văng vẳng bên tai, cô đi trên con đường dài trở về ni viện với cảm giác rằng cô sẽ không bao giờ gặp lại ngài nữa.
Vô cùng nản lòng, Mae Chee Kaew lê bước xuống con đường núi dốc, ôm chặt suy nghĩ về tình trạng tiến thoái lưỡng nan của mình. Ngay từ giây phút đầu tiên khi nhìn thấy Ajaan Mahā Boowa, cô tin rằng cô có thể nương tựa vào ngài như một người thầy đúng đắn để hướng dẫn cô hành thiền. Bây giờ, ngài đã không khách khí đuổi cô đi, cô có thể trông cậy vào ai để có được sự chỉ dẫn tinh thông đây? Sau bao nhiêu năm tìm kiếm một người thầy như vậy, giờ đây Mae Chee Kaew cảm thấy mất phương hướng hoàn toàn.
^^^
Khi hiểu biết về cốt lõi
thực sự của tâm đơm hoa
và rực nở trong tâm bạn,
điểm cuối của
con đường dài đau khổ
sẽ dần dần hiện ra.
Dấu hiệu của Pháp
Bước qua cổng ni viện lúc chạng vạng tối, Mae Chee Kaew rảo bước về chòi của mình. Cô cần có thời gian ở một mình, thời gian để suy nghĩ kỹ càng những sự kiện đầy chấn động trong ngày. Nhưng không gian quen thuộc trong chòi giờ đây thấy rất khác lạ, dường như cô bỗng nhiên trở thành một người xa lạ trong nhà của mình. Khi màn đêm đã bao phủ quanh tâm trạng trầm tư của cô, trăng và sao cảm thấy như mờ tối và kém hân hoan hơn trước. Bị chấn động và không yên tâm về bản thân mình, Mae Chee Kaew cảm thấy nhu cầu cấp thiết phải thay đổi.
Suy ngẫm mãi về hoàn cảnh khó khăn của mình, Mae Chee Kaew cuối cùng cũng nhận ra rằng Ajaan Mahā Boowa có lý do chính đáng để đuổi cô đi; cô đã ngoan cố không làm theo lời dạy của ngài, mà cũng không cố gắng thay đổi. Càng suy nghĩ sâu bao nhiêu, cô càng thấy rõ rằng thái độ kiêu căng của chính cô đáng bị phê phán. Rõ ràng là ngài đã có lý do đúng đắn để không chấp nhận cách hành thiền của cô và chỉ cho cô hướng đi khác. Nhưng tại sao cô không chấp nhận sự chỉ dạy của ngài? Cô đã chẳng đi được tới đâu với việc từ chối lời khuyên của ngài một cách cứng đầu cứng cổ chỉ vì chiều theo sự đam mê ích kỷ của cô. Nếu cô cứ đơn giản làm theo cách ngài bảo thì có làm sao? Ít nhất cô cũng phải thử, thay vì luôn luôn từ chối một cách bướng bỉnh. Thấy lỗi của mình, cô tự mắng mình: cô nhận ngài làm thầy; thế tại sao cô không chấp nhận những gì ngài dạy? Cứ làm những điều ngài bảo thì cô sẽ biết được sự thực về lời ngài dạy. Khi rạng sáng, màn sương của sự hồ nghi bắt đầu tan, và cô quyết định phải nhanh chóng chấn chỉnh lại mình. Cô sẽ buộc tâm mình tuân theo lời dạy đó, và sẵn sàng chấp nhận kết quả.
Sáng hôm sau, ngay sau bữa ăn, Mae Chee Kaew miễn cho mình không làm nhiệm vụ hàng ngày và về chòi ngay. Với cảm giác cấp bách nghiêm trọng, cô ngồi xuống hành thiền, muốn bắt buộc sự nhận biết của mình phải được giữ trong thân và tâm. Cô quyết tâm ngăn tâm mình hướng ngoại để tiếp xúc với bất kỳ hiện tượng bên ngoài nào. Cô đã biết được quỷ thần, chư thiên và các phi nhân khác lâu đến nỗi họ không còn quan trọng đặc biệt đối với cô. Mỗi lần cô hướng chú ý ra ngoài khi hành thiền, cô gặp phi nhân. Mặc dù cô thấy phi nhân theo cách giống như những người khác nhìn thấy bằng mắt thường, Mae Chee Kaew không thu được lợi ích thực sự nào từ khả năng ấy. Những ô nhiễm liên tục làm phiền não tâm cô vẫn không bị ảnh hưởng gì. Chỉ bằng việc tập trung vào bên trong và theo dõi sát sao chuyển động của tâm thức cô mới có thể hiểu được những ô nhiễm tinh thần đó và vượt qua được ảnh hưởng của chúng.
Hoàn toàn chấp nhận nguyên tắc này, cô tập trung chú ý trọn vẹn vào việc niệm thầm buddho trong tâm, và tiếp tục cho đến khi tất cả mọi ý nghĩ ngừng lại và luồng tâm thức quy tụ trở thành nhất tâm sâu sắc ở bên trong. Sử dụng toàn bộ năng lực của lòng quyết tâm mới có, cô duy trì sự tập trung trong tâm cho đến khi toàn bộ tấm thân vật lý của cô biến khỏi nhận biết và tâm cô trở nên tĩnh lặng hoàn toàn. Lúc này, hình ảnh là một dấu hiệu của Pháp. Mở mắt bên trong, cô thấy Ajaan Mahā Boowa tiến lại phía cô, cầm trên tay một con dao sắc và sáng. Chỉ con dao thẳng về phía thân cô, ngài nói ngài sẽ trình bày cách thức đúng đắn để tìm hiểu thân vật lý. Rồi ngài bắt đầu chặt một cách có thứ tự thân cô ra làm nhiều mảnh. Tiếp tục cắt bằng con dao sắc, ngài chia cắt thân cô, cắt nó thành từng miếng nhỏ dần.
Mae Chee Kaew sững sờ nhìn trân trân khi các phần của thân rơi xuống nền đất xung quanh mình. Cô nhìn Ajaan Mahā Boowa cắt rời từng phần nhỏ thành những phần nhỏ hơn nữa cho đến khi thân cô không còn gì ngoại trừ một đống rời rạc gồm thịt, xương và gân. Chỉ vào sự nhận biết bên trong của cô, Ajaan Mahā Boowa hỏi: “Phần nào là một con người? Hãy nhìn tất cả chúng đây và so sánh chúng. Phần nào là đàn bà? Phần nào là đàn ông? Phần nào quyến rũ? Phần nào đáng mong muốn?”
Lúc đó, cô đối diện với một đống các bộ phận thân người đầy máu me. Bản chất của chúng kinh tởm tới mức cô mất hết tinh thần khi nghĩ rằng cô đã dính mắc vào đó bao lâu nay rồi. Cô tiếp tục theo dõi những phần còn lại của thân mình phân tán dần cho đến khi cuối cùng không còn gì sót lại. Lúc đó, tâm của cô cảm thấy như rút vào bên trong, và dòng tâm thức của cô quay đảo ngược hướng, rơi vào bệ của định, và quy tụ về chính giữa trung tâm cô. Chỉ còn sự nhận biết đơn thuần và hài hòa còn lại, đơn độc một mình. Bản chất nhận biết của tâm thanh sạch vô cùng tới mức không thể nào tả được. Đơn giản là nó biết – một trạng thái hết sức vi tế của nhận biết ở bên trong tràn ngập.
Bằng cách quay ngược hẳn sự tập trung vào trong, Mae Chee Kaew đã ngưng được dòng tâm thức thông thường và nhận ra cốt lõi thực sự của tâm – bản chất hay nguồn gốc của sự nhận biết. Trong vùng trung tâm của tâm cô trải nghiệm một cảm giác không thể nắm bắt được của không gian rộng lớn vô cùng, không thể đo lường được - bản chất kỳ diệu về tính chất không hình tướng của nhận biết. Khi tập trung vào trong, cô bỗng nhiên quên việc đang tập trung, và rơi vào sự yên lặng hoàn toàn. Không một mảy may suy nghĩ nào khởi lên. Tất cả là sự rỗng rang im lặng. Thân và tâm trong trạng thái tự do tuyệt vời, và mọi đối tượng, kể cả thân cô – đều biến mất không dấu tích. Hoàn toàn vắng lặng, tâm cô giữ yên trong sự tĩnh mịch của chính nó trong nhiều giờ.
Ngay khi tâm cô thoát khỏi trạng thái thiền định sâu, cô phát hiện ra sự chuyển động vi tế của tâm thức – gần như là không thể nhận ra được, đầu tiên nó bắt đầu bắt nguồn từ gốc của tâm, và chuyển dịch khỏi trung tâm. Khi đà của tâm thức mạnh lên, cô thấy rõ sự thôi thúc tức thì và mạnh mẽ bắt tâm chuyển chú ý ra hướng ngoại, theo xu hướng nắm bắt các hiện tượng bên ngoài. Xu hướng đó là một phần bản tính tự nhiên của cô, mạnh đến nỗi trước đây cô không hề nhận ra. Đột nhiên, dòng tâm thức hướng ngoại nổi bật lên trên nền vắng lặng sáng suốt của cốt lõi chân thực của tâm. Để quay ngược dòng tâm thức bình thường và giữ sự nhận biết chắc chắn ở trung tâm bên trong, cô buộc phải đấu tranh mạnh mẽ để chống lại khuynh hướng hướng ngoại của tâm. Cô nghĩ đến Ajaan Mahā Boowa và suy ngẫm về lời trách mắng gay gắt của ngài. Bây giờ đã thấy chắc chắn là ngài đúng, cô lại gia tăng quyết tâm kiềm chế những xu hướng bất thường của tâm mình.
Suốt mấy ngày sau đó, Mae Chee Kaew tập trung vào việc tìm một phương pháp tin cậy để cột chặt sự nhận biết vững chắc ở bên trong. Ra khỏi định sâu, cô thấu hiểu rõ ràng thử thách phải kiểm soát luồng tâm hướng ngoại, và không cho phép chuyển động theo bản năng của nó chiếm được ưu thế và lôi kéo sự chú ý của cô. Hoạt động hướng ngoại của tâm luôn đi kèm với hoạt động suy nghĩ và tưởng tượng. Tâm thức chuyển động, xoay vần đó tạo ra và duy trì toàn bộ thế giới hữu tình. Nhưng khi không có một suy nghĩ nào khởi lên, chánh niệm tự nhiên xuất hiện. Trong khoảnh khắc chú ý đơn thuần, sự hay biết về hiện tại trở nên sáng suốt, nhưng thư giãn. Nó không thuộc vào các yếu tố của thân và tâm, nơi ảo tưởng tinh thần và vật chất có mặt. Trước đây, khi ra khỏi định, các loại hình ảnh hiện ra trong sự nhận biết của cô không có lý do gì rõ ràng, cuốn hút tâm cô theo hướng của chúng. Cô cảm thấy cô không thể đuổi chúng đi khỏi kể cả khi cô muốn như vậy, và thậm chí cô cảm thấy dễ chịu khi chấp nhận các hình ảnh đó. Khi sự nhất tâm được duy trì đến khi chánh niệm thuần túy khởi sinh, cô chứng kiến sự sinh và diệt từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác của vô số ý nghĩ và hình ảnh, trong khi vẫn giữ được sự bình thản không dính mắc. Khi thấy sự chuyển biến căn bản của tỉnh giác, cô nhận ra giá trị của việc tiếp thu hướng dẫn của một người thầy thực thụ.
Khi cô đã vững tin là cô có thể thuần thục trong việc đảo chiều luồng tâm hiếu động của mình bằng nhất tâm và giữ nó trú trong hiện tại, cô quyết định đánh liều đối mặt với sự không hài lòng của Ajaan Mahā Boowa và quay lại hang Nok An để cô có thể trình bày về tiến triển trong thiền của mình một cách tôn kính. Khi cô đến hang, cô được đón bằng sắc mặt không cởi mở và nghiêm khắc của Ajaan Mahā Boowa.
“Tại sao cô còn đến nữa?” ngài quát. “Tôi đã bảo cô tránh xa! Đây không có chỗ cho nhà hiền triết vĩ đại!”
Cô van nài ngài cho phép cô nói, lắng nghe điều cô cần phải nói. Cô giải thích rằng trải nghiệm đau đớn khi bị đuổi đi đã làm cô nhận ra lỗi lầm và đã nghiêm túc làm theo lời khuyên của ngài chú ý vào bên trong. Rất tỉ mỉ chính xác, cô đã mô tả hướng đi mới trong thiền của mình, và việc cô đã học cách duy trì tâm không dính mắc như thế nào. Cô biết cô đã sai khi đề cao sự hiểu biết lệch lạc của mình về các hiện tượng tâm linh, mà bây giờ cô đã nhận ra là nó chẳng đưa cô đi đến đâu hết cả. Cô đã thực tập chăm chỉ vài ngày và phát hiện được cách kiểm soát xu hướng năng động của tâm mình cho đến khi cuối cùng cô đã thành công trong việc giữ nó vững chắc ở bên trong. Với lòng biết ơn vô hạn và sự cảm nhận thành công, cô quay lại để lạy thầy mình và xin được tha thứ.
Chỉ những ai hành thiền mới có thể thực sự hiểu con đường tâm linh. Nhưng học thiền đúng cách đòi hỏi cần phải có sự hướng dẫn của một người thầy tài giỏi. Thầy không thể phạm một sai lầm dù là nhỏ nhất, đặc biệt khi đệ tử của mình đang thiền ở bậc rất cao, người thầy phải biết nhiều hơn trò để trò có thể thành kính tuân theo sự chỉ dẫn của thầy. Thật là sai lầm nếu vị thầy dạy những điều vượt ra khỏi sự hiểu biết của mình. Đệ tử sẽ không thu được lợi ích từ sự hướng dẫn đó. Khi việc dạy được dựa vào sự trải nghiệm trực tiếp về chân lý thu được từ hiểu biết xuyên thấu, một đệ tử giỏi sẽ có thể tiến rất nhanh trên con đường trí tuệ.
Thấy rằng thiền của cô bây giờ đã vững chắc trên con đường đúng, Ajaan Mahā Boowa rộng lòng nhận cô quay lại. Ngài nói với cô rằng cô đã sống với ma quỷ của tâm mình quá lâu rồi. Việc say sưa theo đuổi sự trôi nổi của luồng tâm thức đã làm cô sống trong sự chi phối của ma quỷ và các thần linh, và làm nô lệ cho những ảo ảnh được dựng lên bởi chính tâm mình. Bằng việc quay luồng tâm thức trở về chính nó, cô đã tạm thời cắt đứt được xu hướng của nó, và khôi phục tâm trở lại với cội nguồn của nó. Cái cô đã trải nghiệm được chính là cốt lõi của tâm – bản chất biết sẵn có của tâm. Nhận thức là một chức năng của cốt lõi của tâm, nhưng hoạt động nhận thức là tạm thời, ngắn ngủi và thiếu sự tỉnh giác sẵn có của tâm. Các trạng thái của thức tồn tại cùng với sự tỉnh giác biết chúng, và cốt lõi biết của tâm chính là gốc rễ và chính là cội nguồn của sự nhận biết đó. Các trạng thái tạm thời của tâm sinh và diệt trong luồng tâm thức chỉ thuần túy là những hiện tượng do nhân duyên. Vì cốt lõi của tâm không do nhân duyên nào cả, nó là hiện thực bền vững duy nhất.
Tâm thức trôi chảy tự nhiên ra khỏi gốc của tâm, chuyển động từ trung tâm của tâm lên bề mặt. Tâm thức trên bề mặt liên tục thay đổi hình thức và nội dung khi nó bị gợn lên bởi các luồng gió tham, sân, si. Nhưng cốt lõi thực sự của tâm không làm gì và không thể hiện trạng thái gì. Là nhận thức thuần túy, nó đơn giản chỉ là biết. Những hoạt động phát sinh từ cốt lõi của tâm, như nhận biết về thế giới vật chất hay thế giới tinh thần là những trạng thái của thức bắt nguồn từ tâm. Vì tâm thức là thể hiện của các hoạt động và trạng thái của tâm, mà theo bản chất tự nhiên thì chúng luôn sinh và diệt, sự nhận biết của tâm thức luôn luôn thay đổi và không đáng tin cậy.
Khi luồng tâm thức hướng ra ngoài tiếp xúc với các giác quan, nhận biết bị đồng hóa với đối tượng của nó. Khi thức tiếp xúc với mắt, cảnh tạo điều kiện cho thức, và thức trở thành nhìn thấy. Khi tâm thức tiếp xúc với tai, âm thanh làm duyên cho thức, và thức trở thành nghe thấy, và tương tự như vậy. Do đó, khi thức khởi sinh, cốt lõi của tâm bị mờ đi, không thể tìm thấy được nữa. Không phải là cốt lõi đó biến mất, mà bản chất biết của tâm đã bị chuyển hóa thành thức. Bình thường, khi con người để cho mắt và tai chạy theo hình ảnh và âm thanh, họ gắn kết tình cảm với những gì thu nhận được, sự bình tĩnh chỉ trở lại khi những đối tượng giác quan đó biến mất. Do luôn bị cuộc diễu hành không ngừng của ma và quỷ thần ám ảnh trong tâm thức bình thường, con người bỏ quên hoàn toàn cốt lõi thực sự của tâm.
Bằng cách quay ngược luồng tâm thức, ý nghĩ bị cắt quãng và ngưng lại. Khi ý nghĩ biến mất, tâm thức thể nhập vào trong, hòa vào cốt lõi nhận biết của tâm. Khi thực hành liên tục, nền tảng này không thể bị lay chuyển trong mọi hoàn cảnh. Khi đó, kể cả khi tâm ra khỏi thiền định, nó vẫn thấy vững chắc như thể không gì có thể làm nhiễu được sự tập trung vào trong của tâm. Mặc dù định không chấm dứt được đau khổ, định vẫn là một nền tảng lý tưởng để bước vào một cuộc tấn công các ô nhiễm tinh thần gây nên đau khổ. Việc quan sát trở nên tự nhiên và bản năng, và chánh niệm luôn có mặt. Sự tập trung tức thời và sắc bén này bổ trợ cho công việc khảo sát và quán chiếu của trí tuệ. Sự an định mạnh mẽ nhờ thiền định trở thành nền tảng tuyệt vời cho việc phát triển sự hiểu biết sâu sắc về bản chất của sự tồn tại.
Có hai mục đích chính trong việc làm ý nghĩ ngưng lại. Một là để mở đường làm rõ bản chất của suy nghĩ, qua việc phân biệt ý nghĩ bột phát và theo thói quen với việc suy nghĩ tập trung và thận trọng, có cân nhắc. Hai là để dọn chỗ cho hoạt động có ý thức của sự hiểu biết không theo khái niệm. Cả hai mục đích này đều là các khía cạnh không tách riêng được của trí tuệ. Khi thực hành đúng, định có thể ngưng suy nghĩ một cách tạm thời, nhưng nó không bóp méo nguyên nhân. Nó cho phép suy nghĩ một cách có chủ ý hơn là bắt buộc. Cách sử dụng tâm như vậy mở ra không gian rộng lớn hơn để ý nghĩ có khả năng suy nghĩ và quan sát với sự trong sáng không bị dính mắc. Nhận biết trực tiếp chỉ thoáng nhìn có thể thấy ngay dòng ý nghĩ dẫn đi đâu. Sử dụng hiểu biết trực tiếp và độc lập, ta có thể bỏ qua những ý nghĩ vô ích và bắt lấy những ý nghĩ có ích, do đó có thể xây dựng được một nền tảng vững chắc cho trí tuệ siêu việt. Một khi tâm chưa đạt được sự tĩnh lặng tối cao, nó không thể nghĩ đúng. Suy nghĩ khởi lên do đà thường có của tâm thức là suy nghĩ lung tung, không phải suy nghĩ thực chất. Hiểu biết đạt được từ suy nghĩ quy ước là sự hiểu biết nông cạn và không đáng tin cậy. Nó thiếu sự hiểu biết bản chất của trí tuệ chân thật.
Một tâm không bị xao lãng bởi những suy nghĩ và các cảm xúc bên ngoài chỉ tập trung duy nhất vào trường nhận biết và khảo sát những hiện tượng khởi sinh ở đó dưới ánh sáng của sự thật, không bị ảnh hưởng bởi võ đoán hay suy luận. Đấy là một nguyên tắc quan trọng. Quá trình khám phá diễn ra suôn sẻ nhờ sự khéo léo và thuần thục. Không bao giờ bị xao lãng hoặc bị lạc hướng bởi phỏng đoán, trí tuệ thực sự khảo cứu, quán chiếu và hiểu ở mức độ rất thấu đáo.
Vì Mae Chee Kaew đã bị trói buộc bởi sản phẩm của tâm thức rất lâu rồi, và do đó đã xa lìa khỏi cốt lõi của nó, cô rất cần trải nghiệm trực tiếp cốt lõi thực sự của tâm. Nhưng trải nghiệm cốt lõi thực sự của tâm là phương tiện chứ không phải là điểm đích – phương tiện để giải phóng tâm khỏi những chướng ngại thô trong tâm, và tạo nên một nền tảng vững chắc để tiếp tục tu tập. Ajaan Mahā Boowa đã cảnh báo cô rằng trải nghiệm được cốt lõi của tâm có thể dễ dàng dẫn cô đến cảm giác sai lầm khi tin vào sự hiểu biết khởi lên từ nhận biết có ý thức. Do đó, một điều cấp bách là mọi thứ sinh khởi từ tâm cần phải được nghiên cứu một cách kỹ càng. Mỗi lần ra khỏi trạng thái định sâu, cô cần phải soát xét lại các hoạt động của tâm thức để tìm ra ô nhiễm vẫn còn sót lại của các duyên đắm chìm trong tâm vẫn đang bị sai sử bởi các dính mắc dai dẳng vào sắc thân, vào các hình tượng tâm linh và sự hình thành ý nghĩ.
Theo hướng đó, Ajaan Mahā Boowa dạy Mae Chee Kaew cách tập kích sâu hơn vào trong tâm cô để có thể học cách nhổ tận gốc các ô nhiễm tinh thần đã bọc chặt quanh tâm cô. Ngài nhấn mạnh rằng tâm – chứ không phải nhận biết về vô số các hiện tượng trong thế giới quy ước – là cốt lõi của việc thực hành Phật Pháp. Ngài thôi thúc cô trước tiên hướng năng lượng tinh thần vào việc làm sáng tỏ bí ẩn của thân vật chất, và vào sự dính mắc không thể tránh khỏi của tâm vào sắc tướng. Ngài nhắc cô rằng sự vun bồi trí tuệ bắt đầu từ thân người, với mục tiêu là để thâm nhập trực tiếp vào bản chất thực sự của thân.
Khi tìm hiểu thân, ngài dạy cô lợi dụng sức mạnh của quan sát tự nhiên như là một kỹ thuật quán chiếu. Do đó, để tránh rơi vào những khuôn mẫu suy nghĩ có sẵn – dựa trên cách diễn giải theo thói quen và được bổ sung bởi ước đoán và giả định – Mae Chee Kaew phải có chánh niệm, tỉnh giác sắc bén ngay nơi tâm thức phát khởi từ cốt lõi thực sự của tâm. Để cho hiểu biết tự nhiên sinh khởi cần phải vượt qua hạn chế của suy nghĩ và tưởng tượng thông thường. Điều đó có nghĩa là cần nhận biết đối tượng được khảo cứu ngay khi nó xuất hiện trong tâm, tất cả ngay lập tức mà không đặt khái niệm. Nếu cô cho phép tâm thức phân biệt hoạt động, bằng cách đặt tên và dán mác cho sự hình thành tâm ý thì tiến trình sản xuất các khái niệm theo thói quen sẵn có sẽ tạo ra vô số suy nghĩ và dẫn đến vô vàn lẫn lộn – đó chính là sự đối nghịch đối với sự hiểu biết chân thật. Bằng cách quan sát tự nhiên các hiện tượng với chánh niệm rõ ràng, cô có thể phát triển được sự tự do thoát khỏi các đối tượng của nhận thức, và đạt được sự thanh tịnh tự nhiên của trí tuệ, không bị ngăn che.
^^^
Nhận thấy sự khổ đau do
dính mắc vào thân mình
là tuệ giác đầu tiên giúp
tâm hướng trọn vẹn vào
Pháp. Những ai thấy
sắc thân rõ ràng thường
chóng hiểu Pháp.
Cái xác trong mình
Bước trở về chùa tối hôm đó, Mae Chee Kaew cảm thấy cực kỳ xán lạn và sảng khoái trong cả thân lẫn tâm. Về đến căn chòi nhỏ của mình lúc vừa chập tối, cô ngồi xuống thiền như thường lệ và rà soát lại việc thực hành thiền của mình một cách tổng thể. Việc đắc định luôn đến với Mae Chee Kaew một cách dễ dàng; tâm cô thường hợp nhất một cách tự nhiên. Chỉ có tâm hợp nhất mới có thể có đạt được cận định, tức là mức độ định tâm cần thiết để trải nghiệm trực tiếp thế giới rộng lớn của năng lượng tâm linh mà cô đã bắt gặp một cách quá ư dễ dàng. Khi dòng tâm thức của cô quy tụ vào trung tâm tự nhiên của nó, nó gặp cốt lõi thực sự của tâm, nhưng rất ngắn ngủi, trước khi quay trở ra lấy lại động lực bình thường của nó. Trải nghiệm ngắn ngủi về cốt lõi của tâm dẫn đến cảm giác sai lầm về sự chắc chắn của hiểu biết xuất hiện từ những nhận thức có được sau đó.
Thay vì sử dụng tâm định tĩnh để đi sâu vào việc khảo sát những trạng thái tạm thời của tâm, Mae Chee Kaew thụ động nhìn chuỗi sự kiện luôn thay đổi trong tâm mình, cho phép khả năng suy nghĩ và tưởng tượng của mình suy đoán về ý nghĩa của những gì xảy ra ở đấy. Vì kết luận rút ra từ tư duy khái niệm luôn mang tính cá nhân, hời hợt bên ngoài, cô đã mất đi sự liên kết với sự hay biết không dính mắc của cốt lõi của tâm, do đó đã trở thành nạn nhân của các yếu tố có tính phá hoại của tâm thức, mà điều đó đã tạo ra thiên vị cảm xúc trong nhận thức của cô, và đưa cô đi lệch hướng khỏi hiểu biết đích thực. Tâm thức của cô đã trở nên dính mắc vào việc thêu dệt theo thói quen nhiều đến mức nó dường như tách khỏi và tồn tại độc lập đối với cốt lõi của chính nó.
Những điều chỉnh tài tình của Ajaan Mahā Boowa đã thay đổi điều đó. Bây giờ, khi luồng tâm thức của cô quy tụ vào trung tâm tự nhiên của nó, nó hợp nhất với cốt lõi của tâm, hội tụ trọn vẹn vào bản chất diệu kỳ của tâm biết thuần túy, và hoàn toàn yên ổn trong sự thanh tịnh thù thắng. Thân và tâm thức tan biến. Chỉ duy nhất còn lại sự nhận biết vi tế, không thể nào mô tả được. Không có một chuyển động nào, kể cả sự lăn tăn nhẹ nhất của tâm thức. Chỉ sau khi tâm cô lắng trong thanh tịnh một thời gian đủ dài, nó mới khuấy động trở lại và rút khỏi trung tâm. Một chút lăn tăn của thức xuất hiện, và rồi nhanh chóng biến mất. Sự lăn tăn đó xảy ra tự nhiên; không có chủ định. Một sự vận động nhẹ, ngay lập tức được tiếp theo là tĩnh lặng. Những khoảnh khắc tâm thức hiện lên trên bề mặt và tan biến nhiều lần, dần dần tần suất tăng lên cho đến khi dòng tâm thức cuối cùng lấy lại xu thế bình thường của nó.
Mặc dù cô đã lấy lại được nhận biết về môi trường bên ngoài, các căn nhận thức của tâm cô vẫn còn chưa hoạt động. Tâm thức của cô ở trong trạng thái biết một cách linh động và tự nhiên, nơi bản chất hay biết của cốt lõi tiếp tục vô hiệu hóa khuôn mẫu suy nghĩ bình thường của tâm. Nhờ tính tự nhiên này, nhận biết không giới hạn và nhận thức cụ thể cùng hoạt động đồng thời, giúp cô thấu hiểu thân và tâm ở mức độ thấu hiểu bằng trực giác sâu sắc. Cô biết một cách bản năng rằng cô phải giữ chú ý ở mức độ đó khi thẩm xét các hiện tượng để đạt được hiểu biết xuyên thấu của trí tuệ thực sự. Trí tuệ có thể hoạt động hiệu quả trong dòng tâm thức, vì khuôn mẫu suy nghĩ theo thói quen giờ đây không còn cản trở cô trong việc tiếp cận sâu hơn sự hiểu biết tự nhiên và tự động của trực giác bằng căn biết vi tế hơn.
Ra khỏi trạng thái thanh tịnh sâu của định đêm đó, Mae Chee Kaew thấy dòng tâm thức của cô chậm rãi tràn qua từng bộ phận của cơ thể cho đến khi cô nhận thức được toàn bộ hình thể của nó cùng một lúc. Định kiến về thân không lọt được vào nhận biết của cô. Cô chỉ đơn giản tập trung vào hình thể của thân mình như nó là, trong tư thế ngồi. Nhận biết không dính mắc đem đến hiểu biết bằng trực giác rằng tàng chứa trong thân hình của cô là một quá trình phân hủy liên tục mà cuối cùng sẽ là cực điểm dẫn đến cái chết và tan rã của thân. Với sự rõ ràng sâu sắc trong tâm, cô chọn nhặt chuỗi phân hủy liên tục của thân và bắt đầu đi theo dòng tự nhiên đó để đi đến kết luận duy nhất của nó. Quá tình phân hủy bắt đầu từ sâu bên trong những hốc của thân cô và lan dần ra tất cả các bộ phận khác. Cô chỉ quan sát, không nghĩ hoặc tưởng tượng, và cho phép sự tan rã của thân mình lộ ra trong trường nhận biết. Chẳng bao lâu, quá trình phân hủy tự nhiên của xác chết có xu thế tự nhiên và tự động.
Bắt đầu từ trên đầu, Mae Chee Kaew đưa chú ý của mình dần dần lọc qua toàn bộ cái xác, cho các hình ảnh của quá trình phân hủy trở nên rõ ràng, sắc bén. Vì trí tuệ trực giác của cô đã hoàn toàn đồng điệu trong việc nhận thấy sự chết và tan rã, những thay đổi đồng thời bắt đầu xuất hiện trong các cảnh tiếp theo. Cô thấy cái xác trong mình bắt đầu trương lên và đổi màu, da chuyển thành màu vàng rồi xanh tím thẫm. Khi thân trương lên, da căng hơn, phồng lên rồi vỡ rách ra, lộ ra lớp thịt đang thối và nước mủ, nhanh chóng thu hút một bầy ruồi. Dần dần, mùi nồng nặc của thịt thối rữa gây buồn nôn, và gần như các giác quan bên trong của cô không thể chịu được nữa. Ruồi đẻ trứng, giòi bọ xuất hiện, sinh sôi nảy nở ra và chuyển động lúc nhúc ở trong và xung quanh đống vụn của da tróc và thịt thối, để rồi bao phủ toàn bộ cái xác. Khi giòi đã ăn hết phần mô thối rữa của mình, phần lớn thịt và nội tạng đã biết mất. Khi không còn mô kết nối, bộ xương rời ra và rơi rụp chồng lên nhau, thành một đống xương kinh rợn, còn dính sót ít thịt đang thối rữa và được dính kết soắn xít với nhau bởi gân và sụn. Tiếp tục tan rã làm xương tách ra khỏi nhau, rời rạc, bộ xương không còn hình dáng.
Qua thời gian, với mưa và thời tiết, phần còn lại của thịt và gân cũng không còn nữa, để lại xương, được tẩy thành màu trắng sữa dưới ánh mặt trời. Cuối cùng, xương cũng mục và tan, cho đến khi phần lớn những gì còn lại chỉ là một đống hỗn độn, xương sọ một nơi, khung chậu một nẻo. Cuối cùng, thậm chí những mảnh xương này cũng bị mòn đi, bị yếu tố đất, nơi chúng sinh ra đòi lại. Đột nhiên, đất cũng biến mất, không để lại gì ngoại trừ sự nhận biết thanh tịnh, tinh khiết tỏa hào quang ra mọi hướng. Dần dần, cảm giác đang ở giữa sự nhận biết đầy hào quang mất đi, mang theo nó mọi cảm giác về bản ngã, và môi trường xung quanh.
Mae Chee Kaew hành thiền như vậy hàng ngày. Cô tập trung vào cái xác bên trong lần này qua lần khác cho đến khi việc thấy sự chết và phân hủy trở thành việc quen thuộc của tâm thức, và hình ảnh trong tâm về thân cô bắt đầu mục rữa mỗi khi cô hướng chú ý vào nó. Với mỗi buổi ngồi thiền, huệ nhãn của Mae Chee Kaew theo dõi quá trình chết mở ra với cảm giác bình thản và trong sáng sâu sắc hơn. Dần dần, sự tan rã liên tục của các bộ phận trong cơ thể thu hút chú ý của cô vào bản chất rời rạc của thân, do đó cô bắt đầu tập trung vào các yếu tố hợp thành nó – đất, nước, lửa và gió tạo nên tất cả mọi thứ. Thịt, xương, răng, móng tay và tóc mang đặc tính vật chất cứng chắc của đất. Máu, nước tiểu, nước nhầy và các chất bài tiết thể lỏng mang tính lỏng như của nước. Lửa hiện diện như hơi ấm, năng lượng và sinh khí của thân. Yếu tố gió được thấy trong việc thở, tuần hoàn và chuyển động của thân.
Mae Chee Kaew quan sát được quá trình phân hủy chia tách các mối quan hệ vật chất dính kết các bộ phận trong cơ thể với nhau, và trả chúng lại trạng thái nguyên tố tự nhiên ban đầu như thế nào. Khi tâm thức rời bỏ tấm thân vĩnh viễn, cái chết diễn ra giải phóng các năng lượng cho sự sống của lửa và gió về với các trạng thái nguyên tố tự nhiên của chúng. Quan sát thêm nữa, từ góc nhìn bên trong của nhận biết tự nhiên, cô thấy các chất lỏng trong thân thấm xuống lòng đất, hoặc bay vào không khí. Khi các yếu tố lỏng đã thấm vào đất hoặc bay vào không khí, các bộ phận của cơ thể khô lại, dần dần mất nước cho đến khi chỉ còn các mô cứng và xương trần còn lại. Từ từ vỡ vụn, và chuyển thành bụi, những bộ phận đó cuối cùng cũng hoàn toàn trở lại với yếu tố đất.
Mae Chee Kaew quan sát xương tan vào đất một cách sống động, xương và đất quyện vào nhau thành một chất đồng nhất. Khi phần cuối cùng còn lại của xương quay trở về trạng thái nguyên tố tự nhiên ban đầu, việc chứng ngộ tuyệt vời về bản chất hão huyền và phù du của thân tràn ngập tâm cô. Trí tuệ khởi lên rằng toàn bộ bản chất của thân là sự kết hợp của đất, nước, lửa và gió, và rằng tất cả chúng đã trở về với trạng thái nguyên tố tự nhiên ban đầu. Bỗng nhiên bản thân đất cũng biến mất khỏi sự nhận biết, để lại ánh sáng rực rỡ, tỏa hào quang mọi phía trong nhận thức. Tiếp đó, trong một khoảnh khắc chớp nhoáng, sự hay biết của cô vọt tới một mức độ hợp nhất cô chưa từng trải nghiệm trước đó. Khi đó, ánh hào quang biến mất. Chỉ còn lại một sự rỗng rang không thể diễn tả được – một trạng thái hoàn toàn chỉ có một sự đồng nhất mà không có một khoảnh khắc nào của nhị nguyên. Chỉ còn sự nhận biết thuần khiết – một trạng thái tuyệt vời và siêu việt của thanh tịnh hoàn hảo, không hề có tính khu biệt – sự rỗng rang rung động của cốt lõi thực của tâm.
Sự chuyển hóa nguyên tố tự nhiên của cơ thể vào đất, nước, lửa và gió rất rõ ràng sống động mỗi khi Mae Chee Kaew tìm hiểu nó. Cô thấy rõ ràng là không có gì chết cả. Tóc, móng, răng, da, thịt, xương giảm xuống hình thái nguyên tố ban đầu, chúng chỉ đơn giản là chất đất. Chất đất đã bao giờ chết chưa? Khi chúng phân hủy và tan rã, chúng trở thành cái gì? Mọi bộ phận trong cơ thể đều trả về chất ban đầu. Chất đất và nước quay trở về hình thái ban đầu, cũng giống như chất gió và lửa. Không gì bị diệt cả. Những chất đó chỉ hợp lại với nhau để tạo thành một tập hợp, nơi tâm thức lấy chỗ trú ngụ. Tâm gắn mình vào tập hợp các chất đó và làm nó có sức sống, rồi mang nó thành gánh nặng bằng việc xây dựng bản ngã quanh nó. Bằng cách gán một cá nhân vào tấm thân vật lý đó, tâm vướng phải vô số đau khổ.
Tâm cũng chưa bao giờ chết. Nhiều nhất là luôn có sự thay đổi, sinh rồi tử hiện lên rồi mất đi trong từng khoảnh khắc nhận biết, tiếp nối theo nhau thành hàng không kết thúc. Mae Chee Kaew càng nghiên cứu bốn yếu tố đó, quan sát được chúng tan rã trở về đặc tính ban đầu của chúng, tâm cô càng rõ ràng sáng tỏ. Thế thì làm gì có chết? Và cái gì chết mới được chứ? Bốn yếu tố – đất, nước, lửa và gió – chúng không chết. Cả tâm cũng thế, làm sao có thể chết được? Với hiểu biết đó, tâm cô càng sáng rõ, càng tỉnh giác và càng thấu hiểu.
Ra khỏi sự thanh tịnh tuyệt đỉnh, Mae Chee Kaew quán chiếu ảnh hưởng sâu rộng và uyên thâm về việc cấu thành cơ thể vật lý. Cô nhận ra rằng cảm giác của cô về thân là do bản ngã dựng lên. Từ khi chào đời, cô đã luôn sắp xếp thế giới quay quanh nhận thức về thân, luôn bị việc bảo vệ thân thể và đáp ứng các nhu cầu vật chất của nó chiễm lĩnh một cách bản năng. Cô đã nhận ra được rõ ràng rằng suy nghĩ hình thành trên nền của thân là cái nhân khiến cô bị trói buộc trong vòng sinh tử luân hồi. Bản chất không thanh tịnh bẩm sinh của thân thực ra nằm sâu hơn hình thái vật chất của nó. Nó gây ra nhiều thái độ và hành động thông qua thân mà chúng không chỉ gớm ghiếc mà còn rất tai hại. Sự phù phiếm giả tạo, sự thèm muốn của các giác quan, tà dâm và bạo lực là những cái xấu xa bên trong. Là nguyên nhân cho nhiều loại ý nghĩ và cảm xúc tiêu cực như vậy, sự đồng hóa mình với thân xác nối liền tâm với cái gốc của sự tồn tại trong luân hồi. Cô nhận ra rằng nếu cô muốn lần theo dấu vết của việc dính mắc vào thân tới nguồn gốc của nó, cô sẽ phải nghiên cứu trực tiếp những suy nghĩ và cảm xúc ô nhiễm đó, và luồng tâm thức đã tạo ra chúng.
^^^
Trong một hồ nước trong
suốt và phẳng lặng, ta có
thể nhìn thấy rõ ràng mọi thứ.
Tâm, khi được nghỉ ngơi
hoàn toàn thì tĩnh lặng.
Khi tâm tĩnh lặng, trí tuệ
sinh khởi dễ dàng, trôi chảy.
Khi trí tuệ trôi chảy,
hiểu biết rõ ràng sẽ theo sau.
Hay biết tự nhiên
Vài tháng tiếp theo, cuộc sống của Mae Chee Kaew trôi qua nhẹ nhàng và vững chắc tập trung vào việc hành thiền tích cực. Về căn chòi cách biệt sau bữa sáng, cô dành những giờ buổi sáng để hành thiền đi. Đường thiền đã trở thành chiến trường thiêng liêng cho Mae Chee Kaew trong cuộc đấu tranh để phá vòng sinh tử. Cô đua trên quãng đường dài đó bằng cách chú ý vào trong hoàn toàn đến mức cô không nhận biết được tư thế của thân mình hoặc khi đôi chân trần của mình chạm đất. Nhận biết của cô tập trung vào trong đến mức thỉnh thoảng cô rời khỏi đường đi và đi vào bụi cây. Không mất tập trung, cô lái mình về lại đường đi theo bản năng, và lại tiếp tục đi, quyết tâm chú tâm vào luồng tâm thức.
Đường thiền được tán lá xum xuê của cây thân cao và bụi tre cong ngọn che mát. Một đầu là cây sến đỏ cao, lộng lẫy mà Mae Chee Kaew đã dựng một cái chõng tre mộc mạc bên dưới, nơi cô có thể nghỉ và hành thiền trong những giờ nắng nóng buổi trưa. Cây sến đỏ, một loại cây sao dầu của rừng nhiệt đới nhiều mưa, đã trở thành một trong những vị trí yêu thích của cô. Cây sến đỏ là cây gỗ cứng rắn chắc, được ngưỡng mộ bởi những chùm hoa vàng rực, điểm xuyết cho nền tán lá xanh trong mùa hoa nở và thả xuống sàn thiền những cánh rụng của mình. Kết hợp giữa sự cứng rắn và kiều diễm, cây sến đỏ biểu trưng cho sự kiên cường và lộng lẫy là trạng thái tâm Mae Chee Kaew có lúc bấy giờ.
Một đêm, Mae Chee Kaew thấy một linh ảnh. Cảnh của một hồ rộng có nhiều hoa sen nở trải rộng trước huệ nhãn của cô. Những đóa hoa nở nổi trên mặt nước to như những chiếc bánh xe bò, những chiếc cánh bằng vàng mỏng mịn tỏa sáng khắp các phía. Những bông sen khác cánh chúm chím trên cành sen hướng thẳng lên trời, vươn cao hẳn trên mặt nước trong xanh như những ngôi chùa có mái vòm bằng vàng. Những bông khác vừa đủ nổi trên mặt nước trong mát, hào quang của chúng lấp lánh trên mặt hồ như vàng cám. Nước trong suốt lạ kỳ đến mức nhìn thấy rõ lớp bùn mềm mấp mô dưới đáy. Rơi khỏi cành, vài cánh hoa nổi trên mặt nước, thẫm ướt và lấp lánh, hương thơm thanh nhã của chúng tỏa trong không khí đi khắp các hướng. Mae Chee Kaew nhìn trong im lặng sửng sốt, một con vịt vàng từ trên trời lượn xuống, là là trên mặt hồ tĩnh lặng và bắt đầu bơi lội tung tăng giữa những đóa hoa sen. Nó mổ những cánh sen nổi, lượn vòng quanh duyên dáng khi ăn. Sau khi ăn hết bốn cánh hoa, nó dừng lại, thỏa mãn và giữ tĩnh lặng tuyệt đối. Nhìn, mê mẩn, từ bên bờ hồ sen, Mae Chee Kaew cảm thấy thân mình nhấc bổng lên và trôi như một đám mây trên mặt nước. Khi cô đến gần con vịt vàng, cô thấy thân cô nhoài ra để cưỡi lên lưng vịt. Nhưng khi cô trèo lên, cô thấy mình nhập vào nó hoàn toàn. Lúc đó, cô thấy cô chính là con vịt vàng đó. Ngay lập tức, cô rút ra khỏi thiền định và quay về với tâm thức bình thường.
Mae Chee Kaew suy nghĩ về cảnh huyền bí đó nhiều ngày, tìm ý nghĩa thực sự của nó. Vịt vàng ăn lá sen vàng. Hoa sen tượng trưng cho những vật cúng dường lên Pháp bảo, cốt lõi trong Thánh đạo của Đức Phật. Vàng biểu trưng cho ánh sáng, ánh sáng của tâm; hoa tượng trưng cho sự nở rộ, hoặc mở ra, của ánh sáng hào quang của tâm. Cô hiểu rằng bốn cánh hoa đó là bốn bậc Thánh đạo (ariya magga), bốn cái mốc trên Thánh đạo đạt đến Alahán. Như con vịt vàng, Mae Chee Kaew đã tỏa ánh sáng của sự hiểu biết rõ ràng lộng lẫy: trí tuệ mà trong kiếp sống này cô chắc chắn sẽ kết thúc được hành trình của mình trên thánh đạo đó.
Mae Chee Kaew biết rằng nhận thức lan tỏa trong mọi khoảnh khắc của sự hay biết, bất kể chú ý tập trung vào trong hay ngoài. Những cái cô đã từng trải nghiệm, chưa có gì nằm ngoài tâm thức. Vì tất cả mọi hiện tượng đều được nắm bắt, hiểu và trải nghiệm chỉ trên nền tảng đó, chúng không tồn tại độc lập tách khỏi tâm thức. Vì lý do đó, nhận biết về thân là một chức năng vốn có của tâm thức. Về bản chất, cô đang nghiên cứu thân trong tâm, hình ảnh của thân trong tâm dựa trên cảm giác về nó. Tâm thức trải rộng một cách tự nhiên qua toàn bộ thân, kích hoạt các trường giác quan và nhận biết qua giác quan. Kinh nghiệm tạo nên thân kiến – cảm giác thân này là chính ta – là sự tổng hợp các hình ảnh lưu giữ trong tâm kết hợp với nhận biết qua các giác quan về nó; và thấm đượm sự dính mắc đã bắt rễ sâu bền với sắc thân và một cái tôi.
Một cách tự nhiên và không dính mắc, Mae Chee Kaew tập trung quan sát thân như một sự tạo dựng của tâm, như một sản phẩm của tâm thức. Nếu tấm thân vật lý chỉ là một tập hợp của các yếu tố, kết hợp lại với nhau một cách tạm thời, từ đâu thân kiến xuất hiện? Và khi thấy quá trình phân hủy và tan rã tự nhiên của thân, cái gì tạo ra ý nghĩ rằng nó xấu hoặc có cảm giác kinh tởm?
Khi cô tập trung vào những hình ảnh trong tâm về quá trình phân hủy của thân, Mae Chee Kaew đặc biệt chú ý đến những ý nghĩ và cảm thọ đi kèm đưa ra ý kiến những hình ảnh đó là dễ chịu hay khó chịu. Trở thành người quan sát khách quan và không dính mắc, cô để cho cái tâm hay phân biệt được lỏng cương, để đầu tiên là tạo khái niệm, rồi phản ứng với các suy diễn của tâm. Cô chỉ biết thân của mình qua phản hồi từ các giác quan, kết hợp với hoạt động tạo khái niệm của tâm. Nhưng rồi cô thấy các khái niệm từ các giác quan như tốt hay xấu, tích cực hay tiêu cực. Cô cần hiểu tại sao tâm tạo ra những hình ảnh đó, và tâm gán ý nghĩa vào chúng như thế nào.
Tới lúc này, Mae Chee Kaew bắt đầu tập trung đặc biệt vào phản hồi cảm xúc gợi lên từ việc quán thân. Cô đã rất tinh xảo trong việc ngắt được quán tính của tâm thức, và lái ngược nó về cội nguồn. Do đó, cô bắt đầu dùng chính kỹ năng đó để lái ngược luồng suy nghĩ và cảm xúc, và lần lại quá trình của nó về điểm gốc ban đầu. Cô tập trung vào cảnh phân hủy thân ở bậc cao, cô an trú vào đó mà không tạo khái niệm. Với sự hay biết tự nhiên và nhận thức phân biệt của tưởng cùng hoạt động, cô nhận thấy có sự kinh tởm trào dâng theo bản năng từ sâu bên trong cô bao trùm những hình ảnh đó. Cô lưu cảnh đó trong sự nhận biết cho đến khi đối tượng và chủ thể quan sát nhập thành một. Khi đó, cảnh và cảm xúc dần dần kết hợp và thu vào trong cho đến khi cả hai đều được tâm thức thu nhận hoàn toàn. Rồi chúng biến mất một cách nhẹ nhàng. Cô nhanh chóng tập trung lại vào cảnh trong tâm và cảm giác kinh tởm đi liền với nó; và lại nhìn dòng nhận thức, truyền cảm xúc vào cảnh đó, quay trở về nguồn của nó, rồi nhập vào trung tâm của tâm thức và rồi biến mất. Cô càng tập trung cách đó, việc lái ngược cảnh và cảm xúc càng trở nên tự nhiên và tự động. Cuối cùng, không cần nhắc nhở, các hình ảnh và cảm xúc tự mình lui vào trong tâm, quay trở về nguồn gốc ban đầu, và biến mất ở đó ngay lập tức.
Thiền của Mae Chee Kaew đã đạt đến giai đoạn quyết định trong việc quán thân, một bước ngoặt mà tại đó, nguyên nhân gốc rễ trong sự dính mắc của tâm vào sắc thân được nhìn thấy một cách hoàn toàn rõ ràng. Khi cảm giác theo bản năng về sự kinh tởm hợp nhất với nguyên nhân gốc rễ của chúng, một điều thâm thúy bỗng lộ ra: chính tâm tạo cảm giác kinh tởm và quyến rũ, chính là tâm tạo ra nhận thức về cái xấu và cái đẹp. Những phẩm chất đó không tồn tại trong đối tượng của nhận thức. Tâm gán những thuộc tính đó vào những hình ảnh nó thu nhận được, và tự lừa gạt mình để tin rằng những đối tượng đó đẹp và quyến rũ, hoặc xấu và gớm guốc. Thực sự, dòng tâm thức luôn phóng đại trí tưởng tượng và tình cảm đang có mặt theo cấp số nhân. Tâm của cô luôn vẽ ra những bức tranh miêu tả về chính mình và tranh về thế giới bên ngoài. Rồi nó rơi vào sự tưởng tưởng của chính nó, tin rằng những thứ tưởng tượng đó là đích thực.
Ở giai đoạn này, sự nhận biết vô hạn như vũ trụ của cốt lõi của tâm và chức năng phân biệt của tưởng hoạt động đồng thời. Dần dần, ảo ảnh về sự gắn kết giữa các hình ảnh trong tâm cũng bắt đầu bị phá vỡ. Trong dòng trôi chảy của tâm thức, có vô số hình thái vô định và các hình khối chắp nối nổi lên, kết hợp lại thành hình ảnh, và rồi tách rời khỏi nhau ngay lập tức, chỉ nhóm hợp lại và lại tan ra. Ngay sau khi hình ảnh của thân hiện ra, nó biến mất ngay lập tức. Trước khi một ước muốn hoặc một cảm xúc được hình thành đầy đủ, nguồn gốc của sự nhận biết phong tỏa nó, làm nó phải tan ra hư không và biến mất. Thân và tâm có khả năng biểu hiện theo vô số cách ngẫu nhiên, chỉ để tan biến vào hư không, cái này tiếp đến cái kia. Ý niệm thông thường về thân biểu hiện ước muốn tồn tại và là tuyên ngôn về một cá nhân, nhưng cốt lõi biết làm chúng tan biến trước khi chúng có thể định hình chắc chắn ở trong tâm.
Hình ảnh sinh lên rồi diệt đi xảy ra nhanh đến nỗi khái niệm về bên trong và bên ngoài không còn phù hợp nữa. Cuối cùng, sắc tướng hiện lên nhấp nháy, sinh rồi diệt khỏi tâm thức với tốc độ nhanh đến nỗi ý nghĩa của chúng không còn rõ nữa. Sau mỗi lần biến mất, nhận biết trải nghiệm được sự rỗng rang diệu kỳ – sự trống vắng của hình ảnh, và sự trống vắng của sự dính mắc vào hình tướng. Một cốt lõi cực kỳ thanh sạch của sự biết trong sáng nổi trội trong tâm. Với mỗi một hình ảnh mới lóe lên rồi biến đi, tâm càng cảm nhận sự rỗng rang một cách sâu sắc hơn. Từ giây phút đó, tâm của Mae Chee Kaew rỗng rang và rõ ràng kỳ lạ. Mặc dù thân vẫn còn, sự nhận biết của cô rỗng không. Không có bất kỳ loại hình ảnh nào còn vương lại trong tâm.
Tuệ giác này này tạo nên cuộc cách mạng trọng yếu trong toàn bộ con người Mae Chee Kaew. Cô hiểu sự thật với sự chắc chắn tuyệt đối: ảo tưởng về hình ảnh tạo ra bởi luồng tâm thức đưa đến cảm giác kinh tởm và quyến rũ. Cô nhận ra rằng cả hai đều bắt rễ sâu bền từ sự bóp méo mang tính bản năng và tiềm thức những nhận thức về sắc thân. Khi nền tảng thực sự của những nhận thức đó lộ ra, làm suy yếu hoàn toàn tính xác thực của chúng, thế giới bên ngoài của hình thức sụp đổ, và dính mắc của cô vào đó cũng đồng thời tự nhiên biến mất. Cùng với việc chấm dứt tất cả những hình ảnh do tâm tạo ra là việc đoạn lìa dính mắc vào sắc tướng. Khi tâm của cô đã hoàn toàn thoát khỏi sự dính líu vào giác quan, cảm giác thanh tịnh sâu sắc bao trùm toàn bộ tâm cô.
Cuối cùng, đối với Mae Chee Kaew, hình ảnh của thân, thậm chí dưới tướng trạng căn bản cũng không còn tồn tại trong tâm thức. Vì không hình dáng hoặc hình thức nào còn trong tâm để nắm bắt, Mae Chee Kaew biết cô không bao giờ bị tái sinh vào sắc giới là những cõi có hình tướng nữa. Cảm giác thường có về giới hạn vật chất và thân kiến đã biến mất hoàn toàn. Cô cảm thấy mình tan ra, trải rộng ra ngoài và hòa nhập vào tất cả mọi vật, như thể tạo nên một bản chất với toàn vũ trụ; tĩnh tại trong đó, không bị ràng buộc bởi bất kỳ cái gì, là một sự rỗng rang tuyệt đỉnh – trong, sáng và tĩnh lặng.
Thanh tịnh là trạng thái
bình thường của tâm.
Nó bị tì vết chỉ vì nó cho
bên ngoài xâm nhập vào,
làm các cảm xúc như
buồn và vui khởi lên và
tăng trưởng cho đến khi
tâm trở nên đui mù hoàn
toàn đối với bản chất
thực sự của chính mình.
Cốt lõi lung linh
Căn chòi, đường thiền hành và chiếc chõng nhỏ dưới gốc cây sến đỏ vẫn luôn là những người bạn đồng hành của Mae Chee Kaew qua năm tháng. Ngoại trừ giờ ăn hàng ngày, cô ít khi rời khỏi phạm vi môi trường thiền của mình. Mặc dù các tu nữ vẫn đi gặp Ajaan Mahā Boowa một tuần một lần vào ngày tụng giới, Mae Chee Kaew ít khi đi cùng họ, mà chọn việc tập trung vào tăng cường thiền tập. Mặc dù Mae Chee Kaew tập trung toàn bộ nỗ lực cho việc hành thiền, cô vẫn có sự ngưỡng mộ và kính trọng đối với Ajaan Mahā Boowa, và do đó mỗi sáng cô nấu một chõ xôi nhỏ và chuẩn bị một rổ cau cho ngài. Bình thường, Mae Chee Kaew cho một tu nữ mang đồ cúng dường tới Ajaan Mahā Boowa, chỉ thỉnh thoảng cô mới tự đi; và thậm chí lúc đó cô cũng chỉ nói chuyện với ngài ngắn gọn thôi.
Thiền viện của Ajaan Mahā Boowa nằm ở phía Đông Bắc của thị trấn trong khi ni viện của Mae Chee Kaew cách xa hai dặm về phía Tây Nam. Baan Huay Sai nằm ở giữa. Mặc dù có sự cách biệt về khoảng cách và ngài không bao giờ công bố trước kế hoạch đi xa của mình, Mae Chee Kaew luôn biết bằng trực giác khi Ajaan Mahā Boowa rời thiền viện để đi quanh vùng tìm chỗ thanh vắng. Cô luôn biết khi ngài về. Mae Chee Kaew nói cô bỗng thấy cái lạnh bao trùm xung quanh khi Ajaan Mahā Boowa đi khỏi. Và mặc dù ngài thường đi hàng tháng trời, Mae Chee Kaew luôn biết khi ngài về vì cô thấy ấm áp trở lại kể cả trước khi ngài về tới nơi. Cái lạnh và ấm là những hiện tượng bên ngoài đến qua tưởng thức; nhưng cái biết đến từ trong tâm.
Ngay khi Ajaan Mahā Boowa rời đi quanh vùng, Mae Chee Kaew lập tức nói các tu nữ đừng nấu xôi hoặc chuẩn bị trầu cau. Vài tháng sau, khi cô cảm nhận được việc ngài quay lại, cô sẽ bảo các tu nữ lại bắt đầu thổi xôi và bổ cau cho ngài. Bình thường, khi ngài còn ở thiền viện, các tu nữ chỉ đồ xôi cho ngài. Nhưng vào ngày ngài quay lại, Mae Chee Kaew yêu cầu các tu nữ nấu cơm tẻ làm đồ cúng dường đặc biệt. Buổi sáng sau hôm ngài về, các tu nữ đến thiền viện, mang cơm và trầu cau cúng dường. Ngài hỏi các cô sao biết được ngài về vì ngài mới về tối muộn hôm trước. Các tu nữ trả lời rằng Mae Chee Kaew cảm nhận được việc ngài về và yêu cầu họ chuẩn bị đồ cúng dường như thường lệ. Mỗi khi ngài đi những chuyến như vậy về, Ajaan Mahā Boowa luôn nghe một câu trả lời giống nhau. Mae Chee Kaew luôn biết; cô chưa bao giờ sai.
Mae Chee Kaew đã học được cách kiểm tra các hiện tượng thông qua việc sử dụng tưởng thức riêng biệt đồng thời với nhận biết của cốt lõi tâm sẵn có. Cô nhận ra rằng tâm thức trôi chảy tự nhiên từ cốt lõi của tâm để tạo ra hoạt động nhận thức. Và những nhận thức đó được định nghĩa và phiên dịch bằng hoạt động tạo khái niệm của tâm, bắt nguồn từ cốt lõi tĩnh lặng. Do đó cô tập trung chú ý đặc biệt vào thời khắc mà dòng tâm thức khuấy động và trỗi dậy từ sự tĩnh lặng trong trung tâm sống của tâm cô.
Mỗi một ý nghĩ, một tia lóe lên của ý tưởng, gợn lên nhẹ nhàng qua tâm, rồi diệt đi. Đứng tách riêng, những gợn sóng tâm này không có ý nghĩa cụ thể. Chúng chỉ lóe lên trong chốc lát trong nhận biết rồi biến đi không dấu vết. Những ý tưởng vụn vặt – những yếu tố của suy nghĩ – lóe lên rồi tắt có bắt đầu và kết thúc rõ ràng, như tia chớp lóe hoặc đom đóm nhấp nháy. Nhưng sự ghi nhận rồi diễn giải của tâm đi chậm hơn nhiều, bao phủ luồng tâm thức như một làn sương mù di động, trước khi tụ lại thành những hình thức khái niệm rõ ràng. Ký ức và suy nghĩ kết hợp cùng nhau để hình thành các khái niệm và ý niệm về một cái tôi hiện hữu.
Hoạt động tạo khái niệm bao gồm các hiện tượng tâm thường xuyên sinh diệt một cách tự nhiên. Các hiện tượng này tự chúng không có nhận biết. Cái hay biết chúng là cốt lõi của tâm, bản chất biết bao trùm tất thảy. Tâm về cơ bản là không có tính nhị nguyên; nó chỉ là một thực tại sống. Luồng tâm thức từ trung tâm nhận biết tạo ảo giác về lưỡng cực, về bên trong và bên ngoài, cái biết và cái được biết.
Sắc tướng và khái niệm là những hiện tượng do hoạt động của tâm thức tạo duyên. Vì ảo giác vi tế và tràn khắp tồn tại trong tâm của mọi chúng sinh, cái nhận biết sắc tướng và khái niệm trở nên dính mắc vào những thứ do tâm thức tạo nên này. Bám níu vào khái niệm một cá nhân, một con người, tâm biến cảm thọ, ký ức, suy nghĩ thành một cái tôi. Sự bám níu đó biến bản thân tâm thành một cá nhân. Nhưng suy nghĩ và cảm thọ thực ra chỉ là những chức năng hữu vi của tâm; không phải cốt lõi gốc của nó. Cốt lõi biến thành tâm thức liền tạo ra hiện thực theo khái niệm, không phải là hiện thực bản chất. Và hiện thực theo khái niệm về cái tôi là đối tượng của dính mắc đã bắt rễ sâu bền. Mae
Chee Kaew nhận ra rằng tâm chân thực không có hình tướng, và không tạo khái niệm. Bằng việc quan sát một cách tự nhiên các hiện tượng với chánh niệm rõ ràng, cô đã thoát khỏi sự dính mắc vào suy nghĩ theo khái niệm, điều này cho phép cốt lõi biết xả bỏ việc thêu dệt trong tâm trước khi chúng có thể xuất hiện chắc chắn trong dòng tâm thức. Trước khi một ý nghĩ hay một ý kiến có thể hình thành đầy đủ, cốt lõi biết chỉ buông xả, làm tâm đang sinh tan biến vào hư không. Cuối cùng, bản chất không dính mắc của cốt lõi thực của tâm cũng trở nên hoàn thiện đến mức hàng loạt các sự thể hiện qua thức cũng không thể trụ được, mà tan ra trước sự hiện diện tĩnh lặng, hùng mạnh của nó.
Khi đó, tâm của Mae Chee Kaew giống như một chiến trường nơi lực lượng của sự tồn tại của tâm thức đấu chọi với cốt lõi bao trùm, bao phủ tất cả nhưng không giữ lại gì. Vì sự rỗng không sâu sắc thường xuyên hòa tan vô số hình thức tồn tại đang nổi lên, cốt lõi biết của tâm chiếm ưu thế, càng trong sáng và tinh khiết hơn.
Khi tuệ giác thâm nhập sâu được vào bản chất ảo giác của các hiện tượng trong tâm, bản chất biết buông bỏ mọi khái niệm, hoàn toàn nhận ra rằng chúng chỉ là những gợn sóng trong tâm và không có bản chất thực. Bất kể chúng hiện ra thế nào trong tâm, chúng chỉ là những hình tướng hữu vi – các quy ước của tâm, rồi cũng chỉ tan vào hư không. Không có ngoại lệ nào.
Thiền của Mae Chee Kaew đang phá hủy khuôn mẫu của tâm đã thống trị sự tồn tại từ vô lượng kiếp trong luân hồi. Không một ý nghĩ nào có thể khởi lên hoặc hình thành, cho thấy chánh niệm thực sự và tự nhiên đã sinh khởi. Sự quan sát tự nhiên của tâm là sự hướng tâm trong sạch, không bị pha trộn, nó đưa đến tuệ giác rõ ràng, xuyên thấu một cách tự nhiên. Khi tâm hiểu rõ ràng bằng tuệ giác trực kiến rằng không thể tìm thấy cái tôi trong các hiện tượng của tâm, sự buông bỏ xảy ra một cách tự nhiên. Khi chú tâm hẹp lại, các dòng tín hiệu tâm gửi ra càng ngắn hơn và ít hơn. Mae Chee Kaew đã nghiên cứu và hiểu các hiện tượng theo khái niệm kỹ càng đến mức cốt lõi sáng trong không còn tạo ra mối liên hệ tâm thức với chúng nữa. Suy nghĩ và tưởng tượng trong tâm đã ngưng lại hoàn toàn. Bản chất biết cốt lõi của tâm đứng tách riêng, tự một mình.
Ngoại trừ sự nhận biết cực kỳ thanh sạch – sự nhận biết tràn ngập toàn bộ vũ trụ – tuyệt đối không còn gì xuất hiện. Tâm đã vượt ra khỏi các điều kiện về không gian và thời gian. Bản chất lung linh của sự sống dường như vô giới hạn, nhưng cực kỳ rỗng rang, bao trùm mọi vật trong vũ trụ. Mọi thứ như đều có một tinh chất vi tế của biết, như thể không còn gì khác tồn tại. Rũ sạch những thứ che mờ và bao phủ cốt lõi hoàn hảo của mình, tâm của cô hiển lộ sức mạnh thực sự của nó.
Khi mọi tay chân của vô minh đã bị chặt bỏ hoàn toàn, tâm của cô hội tụ vào nhân của hào quang rực rỡ – hào quang to lớn và có sức lôi cuốn đến mức Mae Chee Kaew cảm thấy chắc chắn rằng nó báo hiệu kết thúc của mọi đau khổ mà cô đã đấu tranh để đạt được. Buông bỏ được mọi dính mắc vào các yếu tố của cái tôi, cái chói sáng rực rỡ vi tế ở trung tâm của tâm cô trở thành điểm chú ý duy nhất còn lại của cô. Tiêu điểm nhận biết của cô tinh xảo và thanh sạch không thể mô tả được, và toát ra một niềm hạnh phúc chưa bao giờ có và lạ lùng đến mức nó như hoàn toàn vượt qua cõi của các pháp hữu vi. Tâm lung linh toát ra đầy sức mạnh và không gì có thể làm nó sứt mẻ. Không gì có thể ảnh hưởng đến nó được. Mae Chee Kaew bây giờ chắc chắn cô đã đạt được mục đích cuối cùng, Niết bàn.
Thấy rõ vô minh nhờ
ánh sáng của tuệ giác,
chúng ta trở nên nhàm
chán với dính mắc của
ta vào mớ đau khổ này
và buông bỏ sự nắm giữ
của ta. Trong khoảnh
khắc mát mẻ đó, lửa
trong tim ta dịu đi, và
sự giải thoát khỏi đau
khổ tự nhiên sinh khởi.
Sến đỏ nở rộ
Giữa tháng 10 năm 1952 cây sến đỏ đầy hoa rực rỡ. Ngồi dưới gốc cây vào một buổi chiều, tâm cô được tắm trong sự rực rỡ, Mae Chee Kaew thấy đã đến lúc thông báo cho Ajaan Mahā Boowa về thành tựu tột bực của mình. Xét cho cùng, ngài chính là nguồn cổ vũ động viên dẫn tâm cô đến sự chói lọi oai phong sâu sắc. Đã đến lúc đền đáp lại niềm tin của ngài vào cô bằng thành quả của khải hoàn. Hôm đó là ngày tụng giới, cô đến thăm ngài lúc chiều muộn. Cô rời thiền viện cùng vài cô tu nữ khác, đi cùng nhau qua cánh đồng rìa làng cho đến khi đến bờ bên kia. Từ đó, họ bắt đầu leo dốc núi đến hang của Ajaan Mahā Boowa.
Nhìn thấy Ajaan Mahā Boowa ngồi ở cửa hang, Mae Chee Kaew cúi lạy thầy mình tỏ sự sùng kính và chào ngài. Rồi cô cúi đầu, chắp tay vào nhau và xin phép được nói. Cô nói về tiến bộ của mình trong năm vừa qua, cẩn thận đưa chi tiết về các giai đoạn liên tiếp nhau trong trải nghiệm của mình, kết thúc bằng tiếng “sư tử gầm”, sự rỗng rang tỏa sáng tâm bao trùm toàn bộ vũ trụ và vượt qua khỏi thế giới hữu vi.
Khi cô ngừng nói, Ajaan Mahā Boowa nhìn lên và hỏi một cách từ tốn, “Đã hết chưa?” Mae Chee Kaew gật đầu. Ajaan Mahā Boowa ngưng một lát rồi nói:
“Khi con tìm hiểu các hiện tượng của tâm đến khi con hoàn toàn vượt ra ngoài chúng, những ô nhiễm còn lại của tâm thức sẽ rút lại vào một hạt nhân tỏa sáng duy nhất của nhận biết, hợp vào với cốt lõi tỏa sáng tự nhiên của tâm. Hào quang này to lớn và tuyệt vời đến mức các căn siêu việt như chánh niệm, tỉnh giác tự nhiên và trí tuệ trực kiến cũng nằm dưới sự điều khiển của nó không thoát được. Sự trong sáng của tâm rất tuyệt vời và làm cho mọi người trầm trồ ngưỡng mộ đến mức không gì có thể so sánh được. Cốt lõi lung linh là sự cô đọng của thiện pháp và phạm hạnh hoàn hảo, là bậc cao nhất trong hạnh phúc tâm linh. Đó là cái tôi thực sự ban đầu – cái lõi của sự tồn tại của con. Nhưng cái tôi thực sự này cũng là nguồn gốc cơ bản của dính mắc vào sự tồn tại và muốn trở thành. Cuối cùng chính sự dính mắc vào sự lôi cuốn của hào quang nguyên thủy này của tâm làm cho các chúng sinh lang thang vô định trong thế giới của trở thành và tan rã, luôn luôn bám víu vào sinh để rồi chịu đựng tử.
“Nguyên nhân căn bản của dính mắc đó chính là vô minh về cái tôi thực sự của con. Vô minh là cội nguồn của tất cả các ô nhiễm của tâm thức, và đầu ra của nó là quán tính hoạt động liên tục của thức. Trong lĩnh vực này, vô minh là chỉ huy tối cao. Nhưng một khi chánh niệm và trí tuệ đủ mạnh để hạn chế hoạt động của thức và do đó đóng đầu ra này lại, ảo giác tạo bởi dòng chảy của các hiện tượng của tâm không còn nữa. Cắt đứt mọi luồng ra bên ngoài làm vô minh không còn chỗ quay trong tâm, bắt nó phải tụ lại thành một hạt nhân sáng rực rỡ mà từ đó mọi sự biết bắt nguồn. Trung tâm của sự biết này là một sự rỗng rang rực rỡ thực sự tràn ngập và đầy kinh ngạc.
“Nhưng không được nhầm lẫn sự rỗng rang rực rỡ hào quang ấy với sự rỗng rang thanh khiết của Niết bàn. Hai cái đó khác nhau như ngày và đêm. Cái tâm rực rỡ hào quang ấy là tâm gốc của vòng sinh tử không ngừng; chứ không phải là cốt lõi tâm thuần khiết hoàn toàn thoát khỏi sinh tử luân hồi. Hào quang là một trạng thái rất vi tế mà sự rực rỡ và trong sáng làm nó có vẻ rỗng rang. Đó là bản chất tự nhiên gốc của con nằm ngoài tên và hình tướng. Nhưng đó chưa phải là Niết bàn. Nó là cái rất căn bản của tâm đã được thanh lọc đến độ có được đặc tính nổi trội là bản chất biết đầy lôi cuốn và oai phong. Khi tâm rốt cuộc buông bỏ mọi dính mắc vào hình tướng và khái niệm, cốt lõi còn lại cực kỳ tinh khiết. Nó đã buông xả tất cả – trừ chính nó. Nó vẫn bị bao trùm bởi vô minh căn bản về bản chất thực sự của chính nó. Vì vậy, cốt lõi rực rỡ hào quang đã chuyển sang hình thái vi tế của cái tôi mà con không nhận ra. Cuối cùng con tin rằng những cảm thọ vi tế của hạnh phúc và hào quang tỏa sáng là cốt lõi vô vi của tâm. Không biết là vẫn còn vô minh, con chấp nhận cái tâm oai phong này như sản phẩm cuối cùng. Con tin nó là Niết bàn, là sự rỗng rang siêu việt của tâm thanh tịnh.
“Nhưng sự rỗng rang, hào quang, trong sạch và hạnh phúc đều là các trạng thái rất vi tế của tâm vẫn bị bao phủ bởi vô minh. Khi con quan sát sự rỗng rang cẩn thận, với chú ý không ngừng, con sẽ thấy nó không thực sự đồng bộ, không thực sự thường tồn. Sự rỗng rang do vô minh tạo ra là kết quả của các pháp hữu vi rất vi tế. Thỉnh thoảng nó thay đổi chút ít – rất ít thôi – nhưng đủ để cho con biết là nó vô thường. Những thay đổi vi tế có thể thấy được, vì mọi pháp hữu vi – bất kể là chúng tinh khiết, rực rỡ và oai phong thế nào – chắc chắn sẽ biểu lộ vài triệu chứng không bình thường.
“Nếu đó thực sự là Niết bàn, tại sao trạng thái tinh khiết này của tâm lại bộc lộ những trạng thái vi tế khác nhau? Nó không phải là thường và thực. Hãy tập trung vào trung tâm lung linh rực rỡ đó để thấy rõ rằng hào quang của nó vẫn có những tính chất đó – vô thường, không hoàn hảo và không bản chất – cũng giống như tất cả các hiện tượng khác mà con đã vượt qua. Khác biệt duy nhất là hào quang này vi tế và trong sạch hơn rất nhiều.
“Hãy cố gắng tưởng tượng con đang ở trong một căn phòng trống. Con nhìn xung quanh và chỉ thấy không gian trống rỗng – khắp mọi nơi. Hoàn toàn không có gì chiếm lĩnh không gian đó – ngoại trừ con, đứng ở giữa phòng. Ngưỡng mộ sự rỗng rang, con quên bản thân mình. Con quên là con chiếm vị trí trung tâm trong không gian đó. Thế thì làm sao căn phòng rỗng được? Một khi còn có người trong căn phòng đó, nó không thể hoàn toàn trống rỗng. Khi con cuối cùng nhận ra được rằng căn phòng không bao giờ có thể thực sự trống rỗng nếu con không rời đi; đó là giờ khắc vô minh về bản ngã thực sự của con tan rã, và tâm vô si, thanh tịnh khởi lên.
“Khi tâm đã buông xả tất cả các pháp, tâm hiện ra cực kỳ rỗng rang; nhưng ai còn ngưỡng phục sự rỗng rang, ai còn đang dính vào sự rỗng rang, người đó vẫn đang còn tồn tại. Cái tôi, như một điểm tựa, là cốt lõi của mọi sự hay biết sai lệch, vẫn còn lẫn trong cốt lõi biết của tâm. Cảm giác về bản ngã là vô minh căn bản. Sự hiện diện của nó cho thấy sự khác biệt giữa sự trống rỗng vi tế của tâm tỏa hào quang và sự rỗng rang siêu việt của tâm thanh tịnh, thoát khỏi tất cả mọi hình tướng của vô minh. Cái tôi là chướng ngại thực sự. Ngay khi nó tan rã và biến mất, không còn lại bất kỳ chướng ngại nào nữa. Sự rỗng rang siêu việt xuất hiện. Cũng như trường hợp của một người trong căn phòng trống, ta có thể nói tâm thực sự rỗng rang chỉ khi cái tôi rời khỏi mãi mãi. Sự rỗng rang siêu việt này là sự tách rời hoàn toàn và mãi mãi mà không đòi hỏi bất kỳ một cố gắng nào nữa để duy trì.
“Vô minh là sự nhận biết mù quáng về bản chất, được khoác áo bên ngoài bằng hào quang, trong sáng và hạnh phúc. Do vậy, đó là thiên đường an toàn nhất của cái tôi. Nhưng những tính chất quý báu đó cũng chỉ là sản phẩm của các nhân duyên vi tế. Sự rỗng rang thực sự xảy ra chỉ khi từng dấu tích nhỏ của pháp hữu vi biến mất.
“Ngay khi con quay lại và biết nó là cái gì, nhận biết sai lầm đó sẽ tan rã ngay. Phủ mờ cái thấy của con bằng vẻ lộng lẫy của nó, sự lừa bịp lung linh ấy đã che mất kỳ quan tự nhiên thực sự của tâm.”
Trở về thiền viện tối hôm đó, Mae Chee Kaew quán xét xem cái tâm đầy hào quang đã trở thành dính mắc dai dẳng còn lại duy nhất của mình như thế nào. Ca tụng và nâng niu nó hơn tất cả mọi thứ, cô không hề muốn can thiệp vào nó. Trong toàn bộ thân và tâm, không gì nổi trội như sự lung linh đó. Nó gợi lên cảm giác kinh ngạc mê hoặc trong tâm – và hệ quả là một cảm giác bảo vệ dính mắc – đến nỗi cô không muốn cái gì động chạm vào nó cả.
Vì Mae Chee Kaew còn vô minh về cốt lõi của tâm biết, cô quên không tìm hiểu và đánh giá bản chất tự nhiên của cốt lõi đó. Khi phạm vi của tâm thu vào trong, nó tụ mình vào một nhân hào quang – rực rỡ, vui vẻ và ngoan cường. Mọi hoạt động của tâm đều khởi lên từ nhân đó. Tâm thức trôi chảy từ nhân đó. Suy nghĩ hình thành từ đó. Mọi niềm hạnh phúc cũng như tụ ở đó. Do đó cô đã tin rằng đó phải là Niết bàn, trung tâm của sự sống của cô, luôn luôn sáng và trong. Nhưng bây giờ cô nhận ra rằng đó chính là cái nhân của nguồn gốc cho mọi khổ đau.
Không hề run sợ, Mae Chee Kaew bắt đầu xem xét tỉ mỉ hào quang rực sáng phi thường của mình, tìm kiếm bất kỳ dấu hiệu nào của sự không hoàn hảo. Tâm lung linh trông không một tì vết, không bị phiền nhiễu gì và thoạt đầu vô cùng trong sáng. Nhưng khi cô nhìn nó kỹ hơn, cô bắt đầu nhận thấy một ít mờ đục cũng vi tế tương đương thỉnh thoảng nổi lên làm vẩn đục cốt lõi biết sáng rực rỡ hào quang trong suốt như pha lê ấy. Sự bất thường này khiến một dạng vi tế tương đương của sự không thỏa mãn và không chắc chắn lọt vào. Những trồi sụt cực nhỏ mà cô quan sát được đã thể hiện đủ rõ sự thay đổi để cô nghi ngờ và khích lệ cô kiên trì. Cuối cùng, cô đã an trú hoàn toàn vào việc quan sát sự thay đổi đó đến nỗi cô mất mọi cảm giác về thời gian. Cô hoàn toàn quên thời gian trong ngày, thời gian để ngủ và thậm chí là cả việc cô đang rất mệt. Không hề nản chí, cô tiếp tục ngày qua ngày, để ý những sự không đồng nhất nhỏ nhất khi chúng khởi lên, cho đến khi sự chắc chắn về nhận biết tỏa sáng hào quang giảm dần rồi biến mất hẳn.
Khi tia bình minh đầu tiên của ngày 1 tháng 11 năm 1952 ló rạng, Mae Chee Kaew thấy thân mình mệt mỏi. Với chánh niệm hoàn hảo, cô đã thiền đi trong bốn tiếng đồng hồ bằng đôi chân trần. Cô quyết định ngồi nghỉ một lúc trước khi đi ra bếp chuẩn bị thức ăn cúng dường cho chư tăng. Tia ban mai đầu tiên của bình minh bắt đầu rọi sáng phần chóp đỉnh của cây sến đỏ, tắm những bông hoa vàng trong ánh sáng nhẹ nhàng của sự thức tỉnh sắp xảy ra. Cô chậm rãi bước về chiếc chõng tre dưới gốc cây, và ngồi hoàn toàn tĩnh lặng một lúc lâu – khoảnh khắc của định sâu không chú tâm, tĩnh lặng. Một quãng tĩnh lặng kéo dài nơi không có gì tiến lên phía trước, không gì lùi lại sau và không gì đứng yên. Tiếp đó, tỉnh giác nhưng không biết cái gì cụ thể, ngưng trong sự rỗng rang, hào quang trong suốt như pha lê của tâm mà cô đã nâng niu bao lâu bỗng nhiên quay chiều và tan rã – lộ ra cốt lõi biết tất cả, thanh tịnh tràn ngập tâm và bao trùm toàn vũ trụ. Cái biết ở tất cả mọi nơi, nhưng không biết cái gì. Không có tính cách và không có nguồn gốc, bắt nguồn không từ một điểm cụ thể nào, cái biết chỉ đơn giản là sự xảy ra đồng thời của sự mở rộng của vũ trụ. Sự nhận biết đầy hào quang đã tan biến trong tích tắc, để lại sự tinh khiết của tâm và tự do cốt yếu của tịnh Pháp – cái biết vô vi đã hoàn toàn vượt qua mọi hình thái khái niệm của con người.
“Thân, tâm và cốt lõi đều là những
thực tại khác nhau. Tất thảy mọi thứ
đều được biết - đất, nước, lửa và gió;
thân thể, cảm thọ, ký ức, suy nghĩ và
tâm thức; âm thanh, hình ảnh, mùi, vị,
xúc chạm và xúc cảm; tham lam, nóng
giận và si mê – tất cả đều được biết.
Tôi biết tất cả những cái đó như chúng
tồn tại – trong trạng thái tự nhiên của
chính chúng. Nhưng tôi có tiếp xúc với
chúng bao lâu đi nữa, tôi cũng không
thể tìm ra được một tích tắc khi chúng
có quyền lực đối với tâm tôi. Chúng
sinh, rồi chúng diệt. Chúng luôn
thay đổi. Nhưng cái hiện hữu biết
chúng không bao giờ thay đổi một thời
khắc nào. Nó luôn không sinh và không
diệt. Đó là kết thúc của mọi đau khổ”.
^^^
P h ầ n b ố n
Thanh tịnh
Mọi người nói rằng họ muốn
đạt được Niết bàn do đó họ
nghển cổ và nhìn lên sự mênh
mông của không gian. Họ
không nhận ra rằng họ có
nhìn được xa và cố gắng đến
đâu, họ cũng không tìm thấy
được Niết bàn. Đơn giản là
nó không có trong thế giới
của thực tại quy ước.
Sông và đại dương
Sông chảy tự do ra biển cả, mỗi con sông có một tên và đặc tính riêng của mình. Tuy nhiên, khi đã chảy hết ra biển mênh mông, các nguồn nước hợp lại thành một chất cơ bản và các con sông mất những đặc tính riêng của chúng. Nước sông vẫn đó nhưng không còn tính chất riêng khác biệt với đại dương nữa. Sông và đại dương không phải là một, mà cũng không khác nhau. Cũng tương tự như vậy, cốt lõi thanh tịnh của Mae Chee Kaew đã hợp vào đại dương không biên giới của Niết bàn. Cốt lõi vẫn thế, không thay đổi. Nhưng không thể phân biệt nó khỏi yếu tố cốt lõi của Pháp thanh tịnh của Niết bàn. Và cũng như nước sông không thể quay về thượng nguồn, cốt lõi đã hợp nhất của tâm không thể nối kết với những giây phút quá khứ của thức sinh ra ảo giác về sự tiếp diễn của cái tôi. Sống trong thực tại không thời gian, không bị trói buộc bởi quá khứ và tương lai, cốt lõi đó không gặt quả của nghiệp cũ hoặc gieo hạt cho nghiệp mới. Nó không còn để lại mảy may dấu vết nào đánh dấu sự tồn tại của nó.
Trong nhiều ngày, Mae Chee Kaew hoàn toàn an trú trong tinh chất của sự chứng ngộ. Ánh hào quang của tâm mà cô đã nâng niu bao lâu nay trở thành thô và bẩn khi mang ra so sánh, như là phân để cạnh vàng vậy. Cuối cùng, qua luồng tâm thức tự nhiên, cốt lõi của tâm bắt đầu kết nối với các căn nhận biết và với sự tồn tại vật lý của thân cô – những yếu tố thuộc về con người trần thế vẫn đang phải chịu nằm trong vòng sinh tử. Tâm thức của Mae Chee Kaew và tấm thân vật lý của cô là những thứ còn dư sót lại của nghiệp quá khứ từ vô lượng kiếp, và chúng sẽ tiệp tục nhận quả từ những hành động trong quá khứ cho đến khi chúng tan rã khi chết. Mặc dù mọi dính mắc vào chúng đã tan biến trong đại dương mênh mông của Niết bàn, thân và tâm tiếp tục hoạt động bình thường trong môi trường tự nhiên của chúng. Nhưng vì cốt lõi của tâm đã thanh sạch, mỗi một ý nghĩ là một thể hiện của vô si, và mỗi một cử chỉ là một thể hiện của sự chứng ngộ. Sống trong thế gian nhưng không còn là của thế gian nữa, tâm của Mae Chee Kaew không bị ảnh hưởng bởi những ham muốn trần thế.
Vì thân và tâm của cô là quả của nghiệp quá khứ còn vương sót lại, cô nghĩ tới việc vén tấm màn che các kiếp quá khứ của mình để xem nó dẫn đến đâu. Bằng sức mạnh của thiên nhãn, cô bắt đầu quán chiếu về quá khứ vô thủy của các kiếp sống trước của mình. Cô ngạc nhiên khi thấy bao nhiêu lần mình đã sinh ra và bao nhiêu lần mình đã chết; nhìn thấy bao nhiêu kiếp mình đã dừng chân trong thế giới vô tận của cõi hữu tình. Nếu số xác không thể đếm được mà cô đã vứt bỏ trên con đường ấy được trải ra khắp diện tích cả vùng quê thì cũng không còn một chỗ trống nào. Hãy tưởng tượng quãng thời gian từ khi sinh ra cho đến khi chết cho từng đó kiếp sống! Không thể nào đếm được tất cả những lần sinh và tử. Quá, quá nhiều để có thể thử đếm nữa cơ. Cô sững sờ khi nhìn quá khứ của mình. Tại sao đã sinh ra vào đau khổ biết bao lần, mà cô vẫn luôn gắng sức để sinh ra tiếp?
Cuối cùng, chú ý của cô quay sang số xác không thể đếm được mỗi người đã bỏ đi khi sống trên trái đất này. Cô thấy như vậy ở mọi nơi. Mọi chúng sinh, nam hay nữ, có quá khứ giống hệt nhau trong việc chết và tái sinh; tất cả đều bị cột trong một chu trình sai lầm. Mọi người đều bình đẳng về mặt này. Không hề có bất công và bất bình đẳng, chỉ có nhân của nghiệp và duyên tạo điều kiện dẫn đến nhiều hình thái lặp đi lặp lại của trở thành và tan rã. Lùi về quá khứ vô cùng, cô thấy cõi hữu tình đầy ắp xác chết và sự phân hủy của chúng sinh. Đó là một cảnh tượng khó quên.
Mae Chee Kaew luôn từ bi – cô đồng cảm sâu sắc với số phận tâm linh của đồng loại. Nhưng sự thực của Pháp tối cao tràn đầy tâm cô bây giờ đã vượt qua toàn bộ hình thức khái niệm của nhân loại. Làm sao cô có thể giải thích bản chất đích thực của Pháp cho người khác được? Thậm chí nếu cô có thử, người bình thường, còn đắm chìm trong vô minh, không bao giờ có thể hy vọng nắm bắt được sự thanh tịnh phi thường của tâm. Cô khó có thể tìm được người nào có đủ ý thức lắng nghe để mà giảng. Do đó, Mae Chee Kaew đầu tiên thấy không có động cơ để nói về trải nghiệm của mình. Dù sao cũng đã tìm được đường ra, thoát được một mình là cô đã mãn nguyện rồi. Cô được tự do sống cuộc sống tĩnh mịch hoàn hảo trong những năm còn lại của mình. Hoàn thành trọn vẹn ước nguyện cả đời là đạt được Niết bàn đã là quá đủ rồi. Cô thấy không có lý do gì phải mang trách nhiệm dạy dỗ cho phiền toái.
Quán chiếu sâu thêm khiến cô tưởng nhớ đến Đức Phật và vai trò dẫn lối của Ngài trong việc phát hiện ra con đường đích thực đoạn diệt khổ đau. Suy nghĩ lại về Pháp giải thoát và đoạn đường cô đã phải trải qua để vén mở nó, cô cuối cùng đã nhận ra mình trong những người khác: cô cũng đã từng là một người như họ. Chắc chắn những người khác có xu hướng tinh thần mạnh mẽ cũng có khả năng tương tự như cô. Cung kính xem lại tất cả mọi khía cạnh trong giáo pháp của Đức Phật, cô thấy nó phù hợp với mọi người trên trái đất, và phần thưởng sẽ đến cho những ai muốn thực hành đúng. Trí tuệ đó cho cô lấy lại ước muốn giúp đỡ mọi chúng sinh muốn nghe.
Mae Chee Kaew đã giành gần trọn hai năm sống trong sự tách biệt ở ni viện, chiến đấu giành tự do bằng quyết tâm mãnh liệt. Bây giờ cô chuyển việc tự tách mình sang việc gần gũi tham gia vào các công việc hàng ngày của chư ni. Với tất cả khả năng của mình, cô muốn đảm bảo rằng mọi người bạn đồng hành trên con đường tâm linh của cô đều có cơ hội tốt nhất để hiện thực hóa tiềm năng của họ. Tuy nhiên, cô bị hạn chế trong kỹ năng giảng dạy. Mae Chee Kaew là người phụ nữ nông thôn giản dị, thất học, chưa bao giờ hùng biện hoặc nói năng gãy gọn hay khúc triết khi diễn đạt ý nghĩ của mình. Con người hiện tại là một sản phẩm của nghiệp, tính cách này đã ăn sâu trong cô không hề thay đổi. Cô chỉ thoải mái khi nói bằng tiếng Phu Tai, nêu lên ý kiến của mình bằng ngôn ngữ mộc mạc và giản dị của người nông dân. Hùng biện là một năng khiếu trời cho mà cô không bao giờ có được. Vì vậy, những gì cô dạy đều ngắn gọn, thẳng thắn và đơn giản – những giải thích cô đọng cắt thẳng vào tâm của vấn đề, để cho người nghe tự suy đoán những vấn đề xung quanh. Mặc dù Mae Chee Kaew biết bằng trực giác rằng tâm của mỗi người có những định kiến đạo đức cơ bản, và lời khuyên từng người cần nghe là khác nhau, cô thấy không thể diễn tả chỉ dẫn đó bằng một bài nói dài vì không đủ khả năng diễn tả và mở rộng bằng lời cho những ý nghĩ hình thành trong tâm cô. Đối với trí tuệ xuyên thấu và rõ ràng của Mae Chee Kaew, những ai đã thực sự biết sự thật thì im lặng, còn những ai hay nói về sự thật thực ra biết rất ít.
Cuộc sống ở Baan Huay Sai vẫn giữ được sự quân bình giữa việc tập trung vào hành thiền và việc phục vụ người dân quanh vùng, và Mae Chee Kaew đóng vai trò trọng tâm trong việc đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của cả hai bên. Biết các tu nữ hành thiền ở những trình độ nhất định, cô khuyến khích các chị em của mình trong việc thực hành của riêng họ, nói chuyện từ góc độ của người đã trải qua tất cả các trình độ và vượt qua mọi rào cản. Sự chuyên cần cương quyết của cô làm cô thành nguồn cổ vũ động viên các tu nữ – một tấm gương sống về khả năng tiềm tàng của chính họ.
Vài chục năm sống vất vả trong cuộc sống thôn làng đã làm cô đồng cảm với gánh nặng mà người phụ nữ phải chịu đựng trong cuộc sống hàng ngày của họ. Bây giờ, cô cho họ lời khuyên trong những vấn đề nhỏ nhất và trần tục nhất bằng trí tuệ giản dị, chất phác với lòng kính trọng và hiểu biết lẫn nhau. Những ai đến thiền viện tìm sự giúp đỡ của cô đều được đón chào bằng vẻ mặt thanh thản chan chứa hân hoan. Điều đó đã nâng những con người bình dị lên một tầng tâm thức cao hơn và sáng hơn, vượt ra khỏi đau khổ trong kiếp sống trần gian. Trên hết, cô có sự chú ý đặc biệt đến các chúng sinh vô hình từ các cõi phi vật chất. Vào lúc khuya ban đêm, cô thường tiếp khách từ các cõi tâm linh khác nhau. Cô tiếp ma quỷ và chư thiên nhiều như nhau, đều dùng những cuộc đối thoại không lời mà cô đã thành thục từ tấm bé. Vì những cuộc trò chuyện đó dùng ngôn ngữ của tâm, do đó không bị hạn chế bởi cách diễn đạt bằng lời, lời khuyên của cô trôi chảy tự do, như tình thương và lòng từ bi trong sáng của cô. Vì có những tài năng đặc biệt đó, Mae Chee Kaew cảm thấy có trách nhiệm cá nhân đối với những người sống ở các thế giới tâm linh trong suốt quãng đời còn lại của mình. Ngay cả khi đã già và sức khỏe kém, cô vẫn giúp đỡ họ không mệt mỏi.
Từ khi sơ sinh và suốt
thời thơ ấu, ta trông cậy
vào cha mẹ, rồi lớn lên
là thầy cô. Ta có đây hôm
nay là nhờ những người
đó đã giúp đỡ ta. Ta nhận
ơn họ thật nhiều.
Ơn sâu
Ajaan Mahā Boowa và đệ tử của ngài ở quanh Baan Huay Sai, sống và thực hành tại vùng đó trong vài năm nữa. Bằng hiểu biết đặc biệt của mình, Mae Chee Kaew luôn biết được họ ở đâu; họ đến và đi đều không nằm ngoài sự nhận biết của cô. Năm 1953, sau mùa an cư, Ajaan Mahā Boowa đã chứng kiến một linh ảnh đoán trước tương lai trong khi hành thiền. Nâng thân mình một cách nhẹ nhàng lên khỏi mặt đất và chuẩn bị để nói chuyện với một đám đông Phật tử, ngài nhìn xuống thấy người mẹ đã luống tuổi, đang quỳ trước mình. Nhìn ngài than khóc, bà van ngài đừng quên mình. Bà như nói “Sư không bao giờ về nữa à?” Xả thiền, Ajaan Mahā Boowa nghĩ lại hình ảnh đó và hiểu đó là dấu hiệu rõ ràng rằng đã đến lúc cần giúp đỡ mẹ mình bắt đầu con đường tâm linh. Với lòng biết ơn sâu sắc đối với những gì bà đã hy sinh vì ngài, ngài quyết định trở về quê và làm lễ xuất gia cho người mẹ 60 tuổi của mình thành nữ tu mặc áo trắng. Ngài muốn tạo cho bà cơ hội tốt nhất phát triển tâm linh trong những năm còn lại của mình. Nhanh chóng, ngài gửi thư nói bà chuẩn bị để làm lễ xuất gia thành mae chee.
Ajaan Mahā Boowa yêu cầu Mae Chee Kaew đi cùng ngài về quê. Ngài tin chắc rằng cô sẽ là người đồng hành và thày dạy lý tưởng cho mẹ mình – một người có thể trợ giúp bà trong những bước đầu tiên trên con đường tu tập. Vì Ajaan Mahā Boowa đã hướng dẫn Mae Chee Kaew đạt được pháp siêu việt, cô ngưỡng mộ và biết ơn ngài sâu sắc và mong ước được đền đáp ơn đó. Do đó, cùng với hai cô tu nữ nữa, cô đi cùng Ajaan Mahā Boowa và các đệ tử của ngài trên đoạn đường dài về làng Baan Taad.
Nơi Ajaan Mahā Boowa sinh ra nằm cách Baan Huay Sai vài trăm dặm, ở tỉnh Udon Thani. Khi đến làng Baan Taad, họ thấy mẹ ngài đang mong chờ cuộc sống mới của mình. Ngay lập tức, họ chuẩn bị cho bà làm lễ xuất gia. Thấy mẹ đã quá già để lang thang cùng mình trong rừng và núi, Ajaan Mahā Boowa tìm một chỗ phù hợp trong địa phận làng Baan Taad để dựng một thiền viện trong rừng. Khi một người cậu và bạn của ông cúng dường một khoảnh rừng khoảng 70 mẫu nằm về phía Nam của làng, Ajaan Mahā Boowa đã chấp nhận. Ngài quyết định định cư ở đó và xây dựng thiền viện nơi cả các sư và các cô tu nữ có thể sống trong sự tách biệt thanh bình. Ngài yêu cầu các Phật tử dựng sala và những cái chòi nhỏ bằng tre lợp mái cỏ cho chư tăng ni.
Sau đó, Ajaan Mahā Boowa đưa mẹ mình và Mae Chee Kaew cùng một nhóm các sư xuyên con đường dài đi xuống tỉnh Chantaburi ở phía Nam, một vùng ven biển làm nghề chài lưới và trồng hoa quả. Họ an cư mùa hạ năm 1954 ở đó, gặp phải trở ngại không ngờ cho chuyến đi. Mẹ của ngài và Mae Chee Kaew chẳng bao lâu sau đã thấy khó thích ứng được với khí hậu ở vùng mới vì ẩm hơn và không quen thức ăn. Nó khác với sinh hoạt nông thôn đơn giản của vùng Đông Bắc. Ít lâu sau, mẹ của Ajaan Mahā Boowa bị ốm do một căn bệnh không chẩn đoán được. Cuối mùa mưa, bệnh của bà nặng thêm thành chứng liệt toàn thân ảnh hưởng trầm trọng đến việc di chuyển. Ajaan Mahā Boowa quyết định đưa bà về vùng đất quen thuộc của làng Baan Taad và chữa trị cho bà ở đó. Khi ngài và cả đoàn về đến nhà thì đã có một cái sala cùng những cái chòi mới dựng chào đón họ đến thiền viện mới.
Khi trở lại thiền viện mới, Mae Chee Kaew nhanh chóng bắt tay vào việc. Cô luôn nhạy cảm với các loại thuốc chữa bệnh sẵn có trong cây rừng. Hiểu biết đó về cây cỏ cho cô biết rất nhiều bài thuốc chữa bệnh dân gian. Cô vào rừng tìm rễ và củ của những cây cỏ mọc ở đó có khả năng chữa bệnh cho cơ thể của mae chee già. Dùng những cây này theo đúng cách, Mae Chee Kaew bắt đầu chữa cho người mẹ đang bệnh của Ajaan Mahā Boowa. Cẩn thận điều chỉnh liều lượng của thuốc lá cho phù hợp với bệnh tình và triệu chứng luôn thay đổi của người bệnh, cô chăm cho mẹ của thầy mình một cách cẩn thận.
Tin tưởng vào sự chăm chút thường xuyên và khả năng chữa bệnh bằng cây cỏ của Mae Chee Kaew, mẹ của Ajaan Mahā Boowa dần dần lấy lại được sức khỏe. Đầu tiên là khả năng di chuyển của bà hồi phục. Tiếp đến, sau một thời kỳ dưỡng bệnh dài gần ba năm, bà lấy lại hoàn toàn khả năng sử dụng chân tay.
Trong những năm đầu, cuộc sống tại thiền viện trong rừng Baan Taad rất khó khăn. Mọi vật dụng thiết yếu cho cuộc sống đều thiếu thốn. Mae Chee Kaew và các sư khác may y bằng vải liệm xác chết. Gối của họ được nhồi bằng rơm cúng dường tới các sư. Dép của họ được cắt từ lốp xe cũ. Cơm phần lớn là ăn không và không có thức ăn, chỉ đủ để sống qua ngày. Sau này, Mae Chee Kaew khó có thể tả được khó khăn khi sống ở Baan Taad những năm đầu tiên đó.
Đến năm 1960, thế giới bên ngoài bắt đầu ảnh hưởng đến truyền thống hành thiền trong rừng và khung cảnh truyền thống đã thay đổi hoàn toàn. Việc phá rừng diễn ra nhanh chóng và ở khắp nơi, buộc các sư đầu đà phải thay đổi, và cuối cùng là mất lối sống du cư của các ngài. Khi môi trường địa lý thay đổi, thiền viện trong rừng Baan Taad tiên phong trong việc lập thiền viện cố định, nơi cộng đồng các sư và tu nữ có thể tiếp tục di sản của Ajaan Mun, cố gắng giữ phạm hạnh của người xuất gia, giữ giới luật chặt chẽ và hành thiền miên mật. Với phong thái của nhà lãnh đạo và bản tính thẳng thắn, Ajaan Mahā Boowa trở thành người then chốt trong việc cố gắng giữ gìn tình huynh đệ của các sư đầu đà, và nhờ đó giữ gìn phong cách thực hành độc đáo của Ajaan Mun cho các thế hệ tương lai. Sử dụng trí tuệ hoàn hảo và khả năng hùng biện, ngài làm việc không mệt mỏi để trình bày cuộc đời và phương pháp tu tập của Ajaan Mun tới ngày càng đông đảo người nghe. Những người tu tập dần bị thu hút đến thiền viện của Ajaan Mahā Boowa, với hy vọng thu nhận được lời chỉ dạy từ người thầy thực thụ. Dòng người đến học tập đã biến thiền viện thành một trung tâm nổi tiếng trong việc thực hành Phật Pháp. Trong quá trình này, Mae Chee Kaew với phong cách giản dị và không hoa mỹ trong lời ăn tiếng nói vẫn ở dưới bóng của vị thầy lỗi lạc của mình, âm thầm khuyên và động viên những người phụ nữ đến xuất gia tại thiền viện.
Khi sức khỏe của mẹ của Ajaan Mahā Boowa tiến bộ hơn, Mae Chee Kaew nhẹ nhàng thuyết phục bà tập trung hoàn toàn vào việc hành thiền. Muốn bà xây dựng được một nền tảng vững chắc trong thực hành, cô làm cho người phụ nữ lớn tuổi cố gắng chuyên cần và chờ đợi kết quả một cách kiên nhẫn. Sự tiến bộ nhanh chậm thế nào phụ thuộc phần lớn vào xu hướng phạm hạnh đã tích lũy được trong quá khứ và vào sự cố gắng mà bà bỏ ra cho việc thiền đi và thiền ngồi. Bằng việc luôn vun trồng phạm hạnh và không bao giờ cho phép những ý nghĩ xấu xa len vào, tâm bà sẽ sáng hơn và hiểu biết sẽ thâm sâu hơn. Cuối cùng, bà sẽ nhận ra rằng mọi thứ đều do tâm tạo ra. Mắt nhìn thấy hình cảnh; tai nghe âm thanh; mũi ngửi mùi; lưỡi nếm vị; thân cảm giác xúc chạm; ý trải nghiệm cảm thọ. Nhưng tâm biết tất cả những điều này. Tâm biết những điều đó và nghĩ về chúng, tưởng tượng chúng thành những thứ cụ thể và thực. Bằng việc vun trồng chánh niệm và trí tuệ, có thể nhìn được hoạt động của tâm như nó thực sự là: vô thường, vô ngã và luôn gắn liền với khổ đau.
Nếu không tập trung đúng mức, ô nhiễm sẽ kéo tâm đi liền theo chúng, lấn át tâm bằng đà tự nhiên mạnh mẽ của chúng. Trước khi ta nhận ra được cái gì đã xảy ra, sự thèm khát, sân hận, tham lam và ảo tưởng đã chiễm lĩnh, và sự hiện hữu của tâm đã biến mất. Để tránh điều đó, Mae Chee Kaew thôi thúc mẹ của Ajaan Mahā Boowa quan sát tâm cẩn thận và học cách nhận ra hoạt động của ảnh hưởng ô nhiễm trong tâm.
Những lời dạy đầy trí tuệ và sự khích lệ của Mae Chee Kaew đã truyền được cảm hứng cho mẹ của Ajaan Mahā Boowa, và đưa thiền của bà vững chắc vào lộ trình đúng đắn. Vài năm trôi qua, bà đã phát triển được một nền tảng tâm linh vững chắc. Khi Mae Chee Kaew rời khỏi thiền viện trong rừng Baan Taad năm 1967, cô đã thành công trong việc đưa mae chee già thẳng tiến trên con đường cao quý của Đức Phật.
Trước khi hỏi, hãy tìm
câu trả lời trong bạn trước.
Nếu bạn tìm, thường bạn sẽ
tự mình tìm thấy câu trả lời.
Cam kết trọn đời
Cho đến năm 1967, mẹ của Ajaan Mahā Boowa và các mae chee khác thực hành dưới sự hướng dẫn của Mae Chee Kaew đã có được nguyên tắc vững chắc trong hành thiền. Với sự cho phép của Ajaan Mahā Boowa, Mae Chee Kaew kính cẩn từ giã ngài và quay về thiền viện Baan Huay Sai. Suốt thời gian dài ở tại thiền viện trong rừng Baan Taad, Mae Chee Kaew lo lắng về các chị em của mình và vẫn liên lạc với họ. Cô đi lại vài lần một năm để thăm các tu nữ Baan Huay Sai, mang những vật dụng vô cùng thiết yếu bổ sung cho kho nhu yếu phẩm của họ. Bây giờ, khi Ajaan Mahā Boowa cho phép, cô quay trở lại sống tại thiền viện mà cô đã tạo dựng lên. Mae Chee Kaew sống ở đó cho đến 24 năm sau thì mất.
Quay trở lại Baan Huay Sai, Mae Chee Kaew lãnh lại nhiệm vụ dẫn đầu về tâm linh trong ni viện. Cuộc sống ở đó vẫn bình lặng và đơn giản, tập trung chính vào việc nâng cao tỉnh thức trong các hoạt động hàng ngày. Các tu nữ đều tuân thủ các nguyên tắc hướng dẫn nghiêm ngặt mà Mae Chee Kaew đặt ra cho họ và cẩn thận giữ tám giới. Nhẹ nhàng nhưng kiên quyết, cô đề cao phẩm hạnh tu hành cho tất cả các tu nữ.
“Bây giờ các bạn đã xuất gia và đến sống tại thiền viện này với tôi và các tu nữ khác, các bạn luôn phải suy nghĩ, nói năng và hành động bằng tác ý trong sạch nhất. Các bạn đã xuất gia khỏi thế gian trần tục với mục đích rèn luyện mình để làm trong sạch tâm. Đừng để mình vướng bận với cuộc sống trần thế mà bạn đã bỏ lại sau lưng. Đã đến lúc ngừng lo lắng về nhà cửa và gia đình.”
Cô nhắc nhở các tu nữ không bao giờ nói chuyện về những vấn đề không cần thiết; nhưng cần nói về các vấn đề chính yếu thực sự. Cô muốn họ là những tấm gương tu hành, những người kham nhẫn trong khó khăn, kiên trì trong thiền tập, và luôn cố gắng tìm hiểu sự thật về chính mình. Họ không nên khó chịu về những cơ hội đã qua hoặc trông mong vào những phần thưởng tương lai. Những ý nghĩ đó chỉ lừa gạt họ thôi. Cô cảnh báo họ cần chiến đấu chống lại sự lười nhác, và không được đầu hàng trên gối của mình. Họ phải kiểm soát ý nghĩ của mình nghiêm ngặt và chỉ đi tìm sự thật nằm trong tâm của chính mình.
Cô muốn học trò của mình tin tưởng vào con đường của Đức Phật. Đồng thời, cô khuyến khích họ tập trung một cách có mục đích vào việc tiến lên phía trước khi tìm đường đi cho chính mình. Vì con đường đó nằm trong tâm của mỗi cá nhân, mỗi một hành giả phải tự tìm nơi mình để mở ra con đường thoát ra khỏi khổ đau. Cô khích lệ họ luôn vững tâm và kiên trì cho đến khi đạt được mục đích cuối cùng.
Mỗi khi cô cảm thấy các tu nữ uể oải, cô yêu cầu họ phải đánh giá sự tiến bộ của họ:
“Nhiều người trong số các bạn đã học với tôi lâu rồi, nhưng bạn có thể đếm được bao nhiêu thành công thực sự? Số lượng dính mắc hiện có của các bạn còn nhiều hơn số thành công rất nhiều. Nếu không tin tôi, hãy tự hỏi mình: Mình đã đoạn lìa được bao nhiêu dính mắc rồi? Thậm chí chư thiên cũng chỉ sinh ra rồi lại để sinh ra nữa. Cũng giống như các bạn, họ dính mắc vào tầm quan trọng của các kiếp sống phù du của họ. Chính mong muốn được sinh ra, mong muốn có cuộc sống làm mọi chúng sinh liên tục tái sinh vào thế giới của khổ đau.
“Không được phép chểnh mảng trong đời sống tinh thần. Các bạn đang đấu tranh cho đức hạnh và hạnh phúc đích thực. Nhiều người trong số chúng ta, cả già lẫn trẻ, cùng sống chung cuộc sống này. Tất cả chúng ta đều phải chịu khó khăn không tránh khỏi được trong cuộc sống đơn giản của tu nữ mà không trở nên lười nhác hoặc cáu bẳn. Hãy để cho tình thương và lòng từ bi luôn là phản ứng của các bạn trong mọi tình huống. Hãy nhẹ nhàng và tôn trọng đối với các chị em tinh thần của các bạn, và chấp nhận lời chỉ trích của thầy mình một cách biết ơn. Khi tôi phàn nàn về thái độ của các bạn, hãy hiểu là tôi dạy các bạn. Lời chỉ trích của tôi phát ra là để tốt cho chính bạn. Các bạn cần thể hiện sự kính trọng đối với thầy của mình và các tu nữ khác. Các cô tu nữ nhỏ cần cúi lạy các cô tu nữ lớn hơn, kể cả khi cô đó chỉ xuất gia sớm hơn một ngày. Khi bạn vui vẻ chấp nhận vị trí đúng đắn của mình trong cộng đồng, tất cả chúng ta sẽ cùng nhau sống trong tinh thần hài lòng. Tình thương, lòng từ bi và niềm vui thông cảm sẽ tăng trưởng và mở rộng đến khi chúng tràn đầy tâm ta, truyền sang những người khác và tất cả các chúng sinh ở khắp mọi nơi.”
Ajaan Mahā Boowa thường đến thăm thiền viện, và thường tán dương Mae Chee Kaew là một tấm gương xuất sắc để cho các tu nữ và Phật tử noi theo. Thực ra, việc thực hành Giáo Pháp của cô là một hình mẫu mà mọi Phật tử cần noi theo. Ngài khích lệ đệ tử của cô suy ngẫm về dũng khí và quyết tâm đặc biệt, và về trí tuệ tối cao và lòng từ bi của cô. Đó là những phẩm chất làm chỗ dựa cho thực hành của cô và làm vững chắc con đường đi, và cuối cùng đưa cô đến trạng thái bất tử không thể bị suy yếu đi. Vượt ra khỏi đau khổ lẫn hạnh phúc, Mae Chee Kaew đã thực hành Giáo Pháp của đấng Thế Tôn, Đức Phật, đến độ giải thoát cuối cùng.
Là đệ tử của Đức Phật,
chúng ta không được để
đời ta thối rữa ra mà không
tìm được cái gì đích thực
trong ta. Khi cái chết đến,
hãy chết buông bỏ thân và
tâm, cho chúng nằm xuống
mà không luyến tiếc gì.
Sự thanh tịnh của tâm
Suốt 10 năm sau đó, Mae Chee Kaew đầy nhiệt huyết gắn kết mình với đời sống tinh thần của cộng đồng mà cô đã tạo dựng. Đột nhiên, năm 1977, cô ốm nặng. Cô đã có triệu chứng một thời gian rồi. Nhưng vì không muốn người khác bận tâm, cô không nói ra. Khi bệnh tình đã quá nặng không giấu được nữa, cô được đưa vào viện. Bác sỹ phát hiện cô bị lao một bên phổi. Xét nghiệm tiếp theo cho thấy cô còn bị tiểu đường. Lúc đó, thân cô đã yếu và xanh, và gầy rộc vì bệnh. Triệu chứng của cô đã đến giai đoạn nguy kịch. Lo điều xấu nhất xảy ra, nhân viên y tế nghĩ rằng trường hợp của cô đã phải bó tay. Ước đoán khả quan nhất là cô có thể sống được một đến hai năm nữa nếu được chăm sóc y tế liên tục. Thế rồi đến khi Mae Chee Kaew bắt đầu thở khò khè và ho ra máu, nhiều xét nghiệm hơn nữa đã được tiến hành. Bác sỹ phát hiện ra một khối u ác tính ở bên kia của buồng phổi. Khi ba căn bệnh – ho lao, tiểu đường và ung thư – đã được khẳng định, khả năng sống sót của cô tắt ngấm.
Một tháng sau khi vào viện, Mae Chee Kaew đòi rời bệnh viện trở về thiền viện, mặc dù tình trạng của cô vẫn còn rất nguy kịch. Nếu cô sắp chết, cô thích chết trong sự thanh bình của cánh rừng cô yêu quý, được bao bọc bởi tình thương và sự chăm sóc của những người bạn đồng hành tâm linh của mình. Mặc dù thân cô trĩu nặng bởi bệnh tật, tâm cô tự do khỏi mọi gánh nặng. Mae Chee Kaew không quan tâm đến hạnh phúc của bản thân mình, và cô không sợ chết. Lợi lạc của những người đồng hành, những người Phật tử và bạn bè đối với cô quan trọng hơn rất nhiều. Bản chất tự nhiên của cô tỏa sáng rực rỡ làm lung linh bước đường của họ và làm vơi nhẹ trái tim họ. Khó khăn dường như tan biến trước tình thương trong sáng của cô. Chỉ có một nơi cô muốn sống nốt những ngày cuối cùng của mình: nơi cô có thể có lợi nhất cho nhiều người nhất.
Một tín nữ là bác sỹ ở Bangkok, bác sỹ Pensri Makaranon, xung phong được ở cùng với Mae Chee Kaew ở Baan Huay Sai để trong coi việc chữa trị cho cô. Bác sỹ Pensri, người đã hành nghề chữa bệnh 20 năm, bắt đầu chữa trị bệnh lao phổi và tiểu đường bằng những phương thuốc hiện đại nhất trong ngành. Bác sỹ theo một phác đồ kháng sinh nghiêm ngặt để chống lại bệnh lao phổi và cho tiêm insulin đều đặn để chữa tiểu đường. Nhưng, đối với bệnh ung thư, bác sỹ không có cách chữa; do đó không làm gì cả.
Bác sỹ Pensri sau này nhớ lại rằng chữa cho Mae Chee Kaew là ca khó nhất trong sự nghiệp thầy thuốc của mình. Bác sĩ thấy chưa được đào tạo đầy đủ về mặt tâm linh để chữa trị cho một vị Thánh trong khả năng tốt nhất có thể, và đồng thời không làm trái với nguyện vọng của bệnh nhân đã chứng đắc của mình. Biết rằng con người thoát khỏi một bệnh sẽ phải chết vì một bệnh khác, bác sỹ Pensri chú tâm vào việc chữa trị người bệnh chứ không phải căn bệnh. Vì Mae Chee Kaew chắc chắn sẽ chết vào một ngày nào đó, bác sỹ chỉ cố gắng hết sức để đảm bảo rằng Mae Chee Kaew được thoải mái nhất. Vì vậy, mỗi khi bác sỹ Pensri muốn cho Mae Chee Kaew một loại thuốc nào đó, bác sỹ giải thích triệu chứng bệnh của cô và giải thích cách chữa khuyến nghị. Mae Chee Kaew sẽ tự lựa chọn xem cô có chấp nhận nó không. Nếu cô từ chối, bác sỹ Pensri không ép bằng bất kỳ hình thức nào.
Mặc dù kéo dài 14 năm nữa, sức khỏe ốm yếu không cản trở Mae Chee Kaew trong việc hoàn thành nghĩa vụ tôn giáo và việc hành thiền của cô. Cô chỉ giản đơn tiếp tục sống cuộc đời mình theo cách tốt nhất có thể, bù lấp việc ốm bằng cách thích ứng hoạt động hàng ngày cho phù hợp với những hạn chế ngày càng gia tăng do thể chất giảm dần. Từ cô toát ra sự dịu dàng và khiêm tốn đặc biệt. Cô chưa bao giờ mệt mỏi trong việc ca tụng phạm hạnh của những người đã giúp đỡ cô. Để tán dương hảo tâm của bác sỹ, cô luôn dâng thuốc cô nhận được lên quá đầu bằng hai tay trước khi uống. Cô tiếp từng người đến thiền viện cũng như vậy, không phân biệt, và trả lời câu hỏi của họ bằng những lời khuyên truyền cảm của trí tuệ. Tâm cô vẫn trong sáng, và cô vẫn dạy. Biết rằng thân người bị cột vào một cuộc diễu hành không mệt mỏi tiến thẳng đến cái chết, cô chấp nhận tình trạng của mình không một chút nuối tiếc, và chia xẻ thời gian và năng lượng còn lại của mình cho những người đến xin ân huệ của cô một cách không vị kỷ.
Trong suốt quá trình ốm kéo dài, việc ăn và tiêu hóa của Mae Chee Kaew càng ngày càng khó khăn. Do vậy, cô ăn rất ít, một thìa tí tẹo mỗi lần. Phần lớn răng của cô đã rụng do sự tàn phá của tuổi già, do đó cô nhai rất chậm và từ tốn, thường mất một tiếng để ăn xong một bữa đạm bạc. Thỉnh thoảng, do yếu hoặc không thích, cô lắc đầu khi nhai. Cô biết thân người phải bị hoại qua năm tháng; nhưng dù sao mang nó vẫn thật sự là một gánh rất nặng. Và cô càng già và càng yếu, cái gánh đó càng trĩu nặng thêm.
Cái khung vật lý của Mae Chee Kaew vỡ rụng từng tí một; các cơ quan hoại dần đi. Đã biết sự thực về thân người, cô cũng không mong chờ ít hơn thế. Cô bị tăng nhãn áp một bên mắt, làm huyết áp tăng một cách nguy hiểm. Nhưng cô kiên quyết từ chối tìm phương pháp điều trị y tế. Đơn giản là tự nhiên đang vận hành, do đó cứ để nó vậy. Nhiều tháng sau, khi một cuộc xét nghiệm rốt cuộc cũng được thực hiện, các bác sỹ phát hiện ra rằng việc tăng nhãn áp đã làm cô mù một bên mắt. Mắt còn lại bị một lớp mờ đục bao phủ, tuy nhiên không nặng đến mức làm cô không nhìn được.
Cô còn bị chứng đau lưng làm cô đi phải dùng gậy, hạn chế hoạt động rất nhiều. Chân cô yếu dần, rồi chẳng bao lâu không thể di chuyển được nếu không có người giúp. Cuối cùng, một buổi sáng cô thức dậy và phát hiện ra mình không bước đi được nữa. Giờ cô phải được khiêng đi mọi nơi, kể cả đi tắm và đi ngoài.
Mae Chee Kaew đã hiến trọn cả đởi mình cho Phật giáo với tinh thần thương yêu và bè bạn. Thậm chí khi cái chết đã đến gần, cô vẫn là một tấm gương làm việc không mệt mỏi để giúp đỡ người khác, để lại ký ức lâu dài nơi các đệ tử gần gũi của cô và trong người bác sỹ đã chăm sóc cô hết sức tận tình. Mặc dù thân cô bị đau đớn dày vò, cô vẫn không bị lay động và không bao giờ kêu ca. Đã thoát khỏi đau khổ, biết được nhiều cõi sống, biết các kiếp trước của mình và việc đã chứng đắc hiện tại, biết phép thần thông và đọc được ý nghĩ của người khác, Mae Chee Kaew bình thản chấp nhận căng thẳng khó nhọc về thân thể.
Cằm hóp lại, mặt trũng xuống, da tái xám và nhăn rất sâu, thân của Mae Chee Kaew nằm trên giường chết của mình, chỉ ra rõ ràng những dấu hiệu chính xác về tuổi già và bệnh tật. Những cơ quan duy trì sự sống dần dần chịu thua không gắng gượng được nữa, mòn mỏi đi và suy sụp dần, như thể sức sống chuẩn bị xa lìa. Thân và tâm đợi chờ nghiệp quá khứ nhả kìm kẹp, và cho phép sự tan rã được bắt đầu. Nhưng, không có cả thân lẫn tâm, cốt lõi thanh sạch không thể bị phá hủy đã lan tỏa vượt qua tất cả, và không đợi chờ gì hết.
Khi Ajaan Mahā Boowa đến thăm người đệ tử đang ốm của mình ngày hôm đó, ngài nói những người chăm sóc y tế cho cô hãy để cho mọi việc theo tự nhiên. Mae Chee Kaew đã sống cuộc đời mình vì người khác. Giờ đã đến lúc mọi người để cô chết trong thanh bình. Họ không nên quấy nhiễu lần ra đi cuối cùng của một vị Thánh. Khi đó, hai lá phổi của cô đã đặc và bị dịch tràn làm tắc đến nỗi cô khó có thể thở được. Tấm thân hốc hác của cô nằm cứng đờ và bất động, miệng cô há hốc, mắt cô khép hờ. Nghe ngóng những dấu hiệu của sự sống, những người phục vụ cô không còn nghe được tiếng thở nữa. Rõ ràng là sự kết thúc đang đến gần, và không ai trong số họ dám rời mắt khỏi cô. Hơi thở càng yếu hơn và nhẹ dần, thoi thóp rồi cuối cùng ngừng hẳn. Nó kết thúc rất thanh thản, nhẹ nhàng đến nỗi không ai chắc chắn được thời khắc chính xác cô đã ra đi. Sự tồn tại vật lý vẫn rất tĩnh lặng và thanh bình không lộ gì khác thường.
Mae Chee Kaew ra đi trong trạng thái thanh bình tuyệt vời vào sáng ngày 18 tháng 6 năm1991. Cốt lõi riêng của cô, chảy tự nhiên như một dòng suối, hợp vào với sông và biển, cuối cùng đã hòa tan hoàn toàn vào trong sự rỗng rang vô thời gian của đại dương rộng lớn, lặng yên. Một lúc sau, Ajaan Mahā Boowa đến nhìn thân cô. Ngài đứng yên lặng một lúc lâu, quan sát cái xác khô héo được liệm gọn gàng trong vải trắng mềm, rồi nghiêm trang tiến hành việc tắm rửa theo nghi lễ. Ngài ấn định 23 tháng 6 là ngày hỏa táng, để đủ thời gian cho họ hàng và những Phật tử tín thành theo cô đang ở xa kịp về viếng cô lần cuối và tham dự lễ hỏa táng. Ajaan Mahā Boowa từ chối không cho phép tụng kinh cầu siêu trong khóa lễ với lý do Mae Chee Kaew đã thành tựu trọn vẹn, không cần thêm gì nữa.
Tối 22 tháng 6, Ajaan Mahā Boowa giảng một bài Pháp truyền cảm cho đông đảo chư tăng và Phật tử đã đến để viếng Mae Chee Kaew, vị Thánh nữ bậc nhất trong thời hiện đại.
“Khi chết, Mae Chee Kaew làm ta chú ý vào bản chất thực sự của thế giới này: tất cả chúng ta, không ngoại trừ một ai, sẽ chết một ngày nào đó. Sinh ra làm người, chúng ta phải sử dụng tốt kiếp sống may mắn này, vì đó là cơ hội tốt nhất để cố gắng hoàn thiện tâm ta. Không có lý do để nghi ngờ giáo pháp của Đức Phật. Tứ Diệu Đế là bằng chứng chân thực. Nếu chúng ta tin tưởng tuân theo giáo pháp của Đức Phật trong việc hành thiền, chúng ta sẽ chắc chắn có được đạo và quả đến sự hoàn hảo.
“Khi còn có người thực hành Phật pháp một cách đúng đắn, thế giới này sẽ không hết Alahán. Mae Chee Kaew là một điển hình ngời sáng của sự thực này, một vị Alahán thời hiện đại có phạm hạnh hiếm hoi. Cô chết, cũng như tất cả chúng ta; tuy nhiên, những phẩm hạnh cô đã xây dựng được sâu trong tâm – cốt lõi thực sự của sự tồn tại của cô – mới là quan trọng, chứ không phải là cái chết. Tâm là nền tảng. Nó quy định mọi hành động của ta, cả tốt lẫn xấu. Do đó, cần thiết phải xây dựng được tâm ta tròn đầy nhất khi còn có cơ hội để làm điều đó.”
Lễ hỏa táng Mae Chee Kaew được cử hành vào chiều ngày hôm sau, trong phạm vi thiền viện Baan Huay Sai. Hơn 200 vị sư và hàng ngàn Phật tử tín thành đã tham dự để đảnh lễ cô lần cuối cùng. Trong không khí thành kính, hàng dài tăng ni và Phật tử tiến qua linh cữu của cô, đặt những bông hoa rực rỡ kết từ vỏ gỗ đàn hương tỏa hương thơm ngát xung quanh chiếc linh cữu được trang trí hoa văn, cho đến khi chúng chất cao trên dàn thiêu. Khi tất cả mọi người đã ngồi yên lặng cung kính, Ajaan Mahā Boowa châm lửa vào bó bùi nhùi bên dưới linh cữu. Lửa bùng lên và phả khói đặc cuộn quanh dàn hỏa táng và tỏa vào không khí của buổi chiều nóng nực. Bỗng nhiên, và thật là bất ngờ, một cơn mưa nhẹ và mát bắt đầu rơi xuống đoàn người trong khu lễ.
Tối hôm đó, khi lửa đã cháy hết và tro bắt đầu vụn ra và nguội đi, chư tăng ni tập trung yên lặng quanh những gì còn lại đang cháy âm ỉ trong dàn hỏa táng Mae Chee Kaew. Sức nóng dữ dội của dàn thiêu đã làm xương trong thân cô vỡ ra và tan rã, để lại nhiều hạt nhỏ vụn được lửa tẩy thành màu trắng đục. Cẩn trọng nhẹ nhàng, với lòng ngưỡng mộ và tôn kính, các sư cao hạ nhặt những mảnh vụn của xương ra khỏi tro xám và than đen, đặt những hạt đó cẩn thận trên khay được phủ vải trắng. Những xá lợi đó được thu nhặt cẩn thận và giữ một cách nghiêm trang đến sáng hôm sau, khi vô số mảnh từ thân của Mae Chee Kaew được chia cho các Phật tử tín thành của cô như những vật kỷ niệm thiêng liêng. Chúng được nâng niu từ đó như những viên ngọc quý giá của phẩm hạnh không có tỳ vết. Là xá lợi của một vị Thánh, chúng đầy tính tâm linh, siêu phàm, phù hộ cho những người có xá lợi hưởng được phước báu – và thậm chí còn có vẻ thần diệu là chúng tỉ lệ trực tiếp với cường độ của lòng tin và đức hạnh mà người chủ của chúng duy trì được trong tâm.
Trong những năm tháng sau đó, nhiều hạt từ những mảnh xương đó đã trải qua sự biến đổi kỳ diệu. Qua thời gian, các thành phần vật chất dần dần tụ vào nhau và kết tinh lại, tạo thành những viên ngọc cứng, đặc – có những viên trong mờ và góc cạnh như pha lê, có những viên có màu sắc bóng nhẵn như sỏi nhỏ ngoài bãi biển. Xá lợi từ xương, phần vật chất còn lại của cốt lõi trong sạch của một vị Thánh, là điều bí ẩn khó diễn tả bằng lời về cốt lõi thanh sạch của tâm: những mảnh vụn của xương đã hỏa táng biến đổi thành kim cương và ngọc. Những xá lợi này cho thấy khả năng thanh lọc mà tâm thuần khiết của một vị Thánh có thể tác động tới các thành phần vật chất của thân. Mức độ an định luôn có trong mọi hoạt động hàng ngày của một vị Thánh có tác dụng tẩy sạch từ từ những thành phần cơ bản đến khi chúng cũng trở nên trong sạch. Hoạt động trong sạch hóa dẫn đến sự biến hóa của những khúc xương bình thường thành xá lợi trong suốt sau khi hỏa táng. Vẻ đẹp và sự tuyệt vời của xá lợi của Mae Chee Kaew thường là dẫn chứng cho – nếu cần bằng chứng nữa – rằng cô thực sự đã là ariya sāvikā (bậc Thánh Thanh văn) – một người con đích thực của Đức Phật.
Lời kết
Ajaan Inthawai Santussako là một vị sư cao hạ rất được kính trọng trong số các sư đầu đà của Thái Lan. Ngài rất quan tâm đến Mae Chee Kaew và di sản huyền thoại của cô. Sinh ra tại một làng gần Baan Huay Sai, và xuất gia làm sāmaṇera khi 11 tuổi, ngài đã biết Mae Chee Kaew từ khi còn nhỏ. Mọi người nói rằng họ đã có quan hệ tinh thần qua nhiều kiếp rồi – một quan hệ nghiệp quả mà Mae Chee Kaew cũng tự mình thường công nhận. Không lâu sau lễ tang của cô, Ajaan Inthawai Santussako quyết định tưởng nhớ đến cô bằng cách lập một đài tưởng niệm có hình dáng cho thấy sự thanh nhã giản dị và lòng từ bi trong sáng của cô. Ngài thấy trước rằng đây sẽ là một nơi mà mọi người từ mọi nẻo có thể tụ họp để hồi tưởng lại phẩm hạnh đặc biệt của cô và đảnh lễ trước xá lợi của một vị nữ thánh.
Sau nhiều năm lập kế hoạch cẩn thận, tầm nhìn của ngài cuối cùng đã thành hiện thực. Cùng với một nhóm kỹ sư đường sắt ở Bangkok, Ajaan Inthawai đã thiết kế và xây một bảo tháp kỷ niệm, phần dưới là một hình thang rộng và trên đỉnh là một hình chóp nhọn duyên dáng. Ngôi tháp được đặt trên một mảnh đất cao có mặt bằng phẳng rộng kề sát ngay thiền viện Baan Huay Sai – một công trình cao gần 24m tính từ chân lên đến đỉnh. Ngôi tháp chứa xá lợi của cô được bao xung quanh là một hồ nước tròn trong mát, trên mặt hồ có rất nhiều hoa súng hồng nở rộ. Bao quanh hồ nước là những khóm hoa nhiệt đới được quy hoạch cẩn thận, xen kẽ với những núi đá tự nhiên và có những bụi cây được cắt tỉa gọn gàng viền mép. Cây cao tỏa bóng mát được trồng thành hàng ở vòng ngoài. Một không khí bình yên và thanh thản hiếm có bao trùm toàn bộ khu vực.
Bảo tháp tưởng nhớ Mae Chee Kaew được chính thức khai trương vào ngày 21 tháng 5 năm 2006. Từ đó, nó trở thành nơi hành hương cho Phật tử từ khắp mọi nơi trên thế giới. Xá lợi lộng lẫy của cô, với chất lượng như ngọc, được bày nổi bật trên điện thờ. Tháp có ba bức tượng cỡ người thật của Mae Chee Kaew. Ngay giữa không gian chính là tượng Mae Chee Kaew đứng làm bằng composite. Tầng hai của tháp, cao trên ban thờ là tượng cô ngồi thanh nhã làm bằng sáp, đắp y trắng của mae chee. Bức tượng cô đang thiền đi làm bằng sợi thủy tinh màu trắng ngần được đặt ở tầng một của tháp. Cửa ra vào và cửa sổ bằng đồng ở tầng hai do một nghệ nhân nổi tiếng cấp quốc gia thiết kế và đục chạm.
Ajaan Mahā Boowa đã bằng lòng chủ trì buổi lễ khánh thành ngôi bảo tháp, là lúc xá lợi được chính thức long trọng đặt vào tháp.
“Nhân dịp buổi lễ đầy ý nghĩa này, chúng ta tưởng nhớ Mae Chee Kaew, đệ tử cao cả của Ajaan Mun, người có xương đã biến thành xá lợi trong suốt tinh hảo. Việc chứng đắc Alahán không phụ thuộc vào giới tính. Khi một người nam cũng như nữ, thành công trong việc đoạn diệt mọi ô nhiễm tinh thần qua việc hoàn thiện phẩm hạnh tâm linh của mình, người đó trở thành Alahán. Tất cả chúng ta cần cố gắng noi theo tấm gương Lời kết 221 tuyệt vời của Mae Chee Kaew bằng cách hoàn thiện phẩm hạnh tâm linh trong tâm của mỗi người. Sự kính trọng từ đáy lòng đối với thành quả tâm linh mà cô đạt được tương đương với việc thờ phụng Đức Phật, Giáo Pháp và Tăng đoàn. Chúng ta có thể nương nhờ vào sự trong sáng không tì vết của cô.”
^^^
Những bài pháp sưu tập được
Sinh ra trên thế gian này, bạn phải tin cậy vào trí tuệ sẵn có của mình. Bạn có thể tìm đến đau khổ hay khoái lạc, tìm kiếm những thứ quý giá hoặc không có giá trị. Tùy thuộc vào hướng chọn của bạn, bạn có thể tìm thấy thiên đường hay địa ngục, hoặc con đường đạo quả dẫn đến Niết bàn. Bạn có thể tìm được mọi thứ: tất cả đều do chính bạn quyết định.
Sự tốt đẹp của người khác là của riêng họ. Ta không thể chia xẻ quả nghiệp của họ, do đó ta phải tự mình làm việc thiện.
Đừng nghi ngờ hiệu lực của nghiệp hoặc đánh giá thấp hậu quả hành động của mình. Làm người, chúng ta cần có lòng bi mẫn với đau khổ của mọi chúng sinh, vì tất cả chúng ta đều chịu khổ vì những việc chúng ta đã làm trong quá khứ. Trong khía cạnh này, mọi người đều bình đẳng. Cái có chức năng phân biệt, làm chúng ta tốt hay xấu, thô hay tế, chính là loại hành động chúng ta đã làm trong quá khứ.
Bạn không thể tự mình trồng đủ cỏ để lợp mái cho tất cả mọi nhà trong thị trấn. Hãy rộng lượng trong khả năng của bạn.
Đừng có đi khắp nơi tán phét và khoe khoang khắp thị trấn. Nếu có gì làm bạn xấu hổ, bạn phải trốn đi, như con ếch nhảy xuống nước khi thấy có người lại gần. Nếu bạn đần độn, đừng quảng cáo là mình thông minh.
Những người không giữ được miệng không biết họ đúng hay sai khi nói. Những ai biết sự thật thường giữ yên lặng; những ai hay nói về sự thật biết rất ít về nó.
Hãy quyết tâm theo dõi hoạt động của thân mình, lời nói và suy nghĩ của mình. Đừng nói nhiều quá hoặc tạo khó khăn cho chính mình. Đừng mất khả năng tự kiềm chế hoặc không lễ phép với người lớn hơn. Hãy cẩn thận giữ lời nói, tiếng cười.
Bất kể bạn thân với người đó thế nào, đừng để lời nói của mình trở nên bất cẩn. Bất kể bạn tức giận thế nào, đừng để lời nói trở nên tức giận.
Đừng mánh khóe và xảo quyệt, lừa cho mọi người nghĩ rằng bạn là người tốt khi bạn không phải như vậy. Người giả mạo đức hạnh và thông minh thực ra là người câm, ngu ngốc và thiếu đạo đức.
Được sinh ra trên đời, chúng ta cứ bám vào giá trị của những ngày, những tháng, những năm trôi qua; chúng ta tin rằng đời ta và cuộc đời của những người khác là quan trọng. Do vậy, tâm của chúng ta triền miên đau khổ. Ngay khi vừa sinh ra, ta luôn có thái độ đề phòng và bắt đầu lo lắng. Chúng ta lo cái này, sợ cái kia. Tâm của chúng ta ngay lập tức bị chi phối bởi thế gian và có xu hướng si mê do tham lam, nóng giận và sợ hãi gây ra. Chúng ta sinh ra trong những điều kiện này và nếu ta không làm gì với chúng ngay bây giờ, khi chết chúng ta vẫn mang theo những xu hướng đó theo ta. Thật đáng tiếc!
Đau khổ - đó là tất cả những gì ta có khi ra đời; muốn, không muốn, toại nguyện hay bất toại nguyện; ngồi, nằm, ăn, đi ngoài – nhưng không có sự giải thoát. Đau khổ luôn ở đó. Do đó, khi ta hành thiền, ta cần khảo sát núi đau khổ này một cách trọn vẹn.
Chúng ta không bao giờ thỏa mãn cả. Ta thích nghe tiếng chim hót nhưng lại ngay lập tức khó chịu khi tiếng chim hót trở nên ồn ào quá.
Tâm của con người tắc cứng đầy đau và khổ đến mức người ta không nhìn thấy gì rõ nữa. Chạy theo những ước muốn của mình và thỏa thê trong đó, người si mê giang rộng tay chào đón đau khổ. Họ nhầm lẫn đau khổ là hạnh phúc. Người khôn nhìn vào trong và khảo sát chính họ cho đến khi họ thấy thực sự hạnh phúc là gì và thực sự khổ đau là gì. Tâm họ không bị đóng kín một cách dễ dàng. Khi thấy sự bướng bỉnh trong bản thân mình, người có trí nhận ra sự bướng bỉnh. Thấy tối, họ nhận ra tối. Thấy si mê, họ nhận ra si mê. Họ tìm lỗi lầm của chính mình; họ không tìm lỗi của người khác.
Đức hạnh được xây dựng qua việc xuất gia. Cái thiện đích thực được tìm thấy trong tâm.
Hãy nhìn cẩn thận vào tâm mình. Xem xét chúng thật kỹ. Chỉ riêng ở đó thôi bạn có thể tìm thấy thiên đường và địa ngục, con đường cao cả dẫn đến giải thoát, và là nơi an toàn, vượt khỏi mọi khổ đau.
Đừng phật ý vì bị trỉ chích hoặc tự hào vì được khen. Hãy giản đơn giữ chú tâm vào việc hành thiền từ sáng tới tối. Hãy phát triển phạm hạnh tinh thần cả ngày lẫn đêm, và hãy luôn nói thật.
Thật thà với chính mình là nền móng của đức hạnh. Hãy tự biết mình, chấp nhận lỗi lầm của mình và cố gắng sửa chữa. Đừng giấu gì nơi mình. Hơn cả thảy, đừng tự lừa dối mình. Tự dối mình là vi phạm đức hạnh căn bản. Bạn có thể lừa dối cả thế giới này nếu bạn muốn nhưng đừng bao giờ tự lừa dối mình.
Hãy vun trồng vườn tâm mình, như người nông dân làm ruộng. Lần lượt phát quang; làm đất; đào luống; gieo hạt; bón phân; tưới nước và nhổ cỏ. Cuối cùng, sẽ gặt được mùa vàng bội thu.
Nếu bạn không thực hành, bạn sẽ không học được cách thiền. Nếu bạn không tự mình thấy sự thật, bạn không thực sự hiểu được ý nghĩa của nó.
Đừng có ngồi không kêu rằng buổi sáng bạn quá lạnh, buổi chiều bạn quá nóng, và buổi tối bạn quá buồn ngủ, rồi lại kêu ca là mình không có thời gian để thiền. Đừng nghe lời dẫn dụ ô nhiễm của lười biếng và đi ngược lại lời dạy của bậc trí tuệ. Người hèn nhát chỉ nghe mỗi mình thôi luôn bận ôm gối của mình, người đó không bao giờ tiến bộ được trên con đường đến chứng ngộ.
Hãy quyết tâm phát triển tâm bạn bằng cách chăm chỉ hành thiền. Hãy hiến cả thân và tâm bạn cho công cuộc tìm kiếm Pháp. Dùng tâm bạn như chiếc đèn pin để soi đường. Hãy quyết tâm trên con đường đó và bạn sẽ thoát khỏi khổ đau. Là người, bạn phải cố gắng có đức hạnh và đừng bao giờ đánh giá thấp tầm quan trọng của Pháp.
Hãy giữ đức hạnh và chăm chỉ hành thiền. Việc đó không tốn của bạn một xu nào cả. Đừng lười nhác. Khi an định và trí tuệ được phát triển đầy đủ, tâm sẽ tự rời xa ô nhiễm. Hãy bỏ mọi dính mắc và thoát khỏi thế giới của khổ đau. Kết quả sẽ là Niết bàn.
Hãy mau lên và thiết lập một nơi nương tựa an toàn trong chính bản thân mình. Nếu bạn không làm vậy, khi bạn chết, tâm bạn không có chỗ dựa vững chắc để tựa vào. Mọi chúng sinh không ngoại trừ ai, đều trải qua sinh và tử. Mỗi người sinh ra đều phải chết và tái sinh đi tái sinh lại trong vòng quay của đau khổ và gian nan. Con người ở mọi lứa tuổi và địa vị xã hội đều bình đằng trong lĩnh vực này. Có thể, chúng ta sẽ chết vào buổi sáng, có thể vào buổi chiểu, chúng ta không biết được. Nhưng chúng ta có thể chắc chắn rằng cái chết sẽ đến khi thời điểm chín muồi.
Chúng ta sinh ra và chết lặp đi lặp lại. Sinh ra, già đi và chết cứ thế quay vòng. Là hậu duệ của Đức Phật, chúng ta không được sống đời ta chỉ để thối và rữa ra mà không tìm được cái gì đích thực trong ta. Khi cái chết đến hãy chết đúng cách, trong thanh tịnh. Hãy chết buông bỏ thân và tâm, cho chúng nằm xuống mà không luyến tiếc gì. Hãy chết trong mối liên kết với bản chất thực của các pháp. Hãy chết theo dấu chân của Đức Phật. Hãy chết như thế, và trở thành “bất tử.”
Hãy nghe tôi! Đừng chỉ có ăn và ngủ như một con vật bình thường. Nhớ giữ mình đừng bị mê hoặc bởi cuộc sống trần tục. Nên sợ sự tái sinh tương lai một cách lành mạnh. Hãy mở tâm bạn ra cho hạnh phúc đích thực. Đừng ngồi một cách vô ích trong đêm nhìn đám than hồng của cuộc đời mình âm ỉ cháy trước lúc tàn lụi.
Kiến thức về thế giới nơi ta đang sống có thể có ích, nhưng không có kiến thức nào so sánh được với việc thực sự biết chính mình. Kiến thức có được qua mắt thường rất khác so với kiến thức có được từ mắt tâm linh bên trong. Hiểu biết hời hợt mà ta có được từ suy nghĩ và trầm tư không giống như hiểu biết sâu sắc có được từ trí tuệ về bản chất thực sự của cái gì đó.
Một lần, có người hỏi Ajaan Mun: “Các sư đầu đà đọc sách gì?” Ngài trả lời: “Họ học bằng đôi mắt nhắm lại, nhưng tâm tỉnh thức.” Ngay khi tôi vừa thức dậy buổi sáng, mắt tôi bị hình tướng dội bom; vì vậy tôi tìm hiểu mối liên hệ giữa mắt và hình tướng. Tai tôi vướng vào âm thanh, mũi tôi vướng vào mùi hương, và lưỡi tôi vướng vào vị; thân tôi cảm giác nóng và lạnh, cứng và mềm, trong khi tâm tôi bị ý nghĩ và cảm xúc tấn công. Tôi liên tục tìm hiểu tất cả những thứ đó. Bằng cách này, mỗi giác quan của tôi trở thành một người thầy; và tôi học Pháp suốt ngày không ngưng nghỉ. Tôi tự chọn giác quan nào tôi muốn chú tâm vào. Ngay khi tôi chú tâm, tôi cố thâm nhập đến sự thật của nó. Đó là cách Ajaan Mun dạy tôi hành thiền.
Thân là một đối tượng quan trọng của tham ái; và sự dính mắc bắt nguồn từ đó là một ô nhiễm dai dẳng. Đau khổ là hệ quả. Để vượt qua nó, hãy tập trung chú ý vào sự phân hủy và tan rã của thân xác để cho tâm nhàm chán rõ ràng hình thái làm người, chán ngán hoàn toàn bản chất thực của cơ thể người. Khi sự nhờn gớm cơ thể vật lý mạnh dần lên, tâm sáng và nhẹ nhàng hơn. Thân người là một đống thịt và máu rộng 60cm và dài 1,8m luôn luôn biến đổi. Thấy sự khổ đau có căn nguyên từ dính mắc vào thân mình là tuệ giác đầu tiên làm tâm hướng trọn vẹn về Pháp. Những ai thấy thân rõ ràng thường hiểu Pháp nhanh chóng.
Khi có những thứ đặc biệt khởi lên trong khi hành thiền, cứ để chúng diễn ra. Đừng dính mắc vào đó. Những thứ đó chỉ là chú ý hướng ngoại và phải được buông xả. Hãy đặt chúng xuống và đi tiếp – đừng bám vào chúng. Mọi cõi tâm thức đều bắt nguồn từ tâm. Ngạ quỷ và chư thiên, cư sĩ, tu nữ – tất cả đều là những chúng sinh bắt nguồn từ tâm. Vì vậy, tốt hơn cả là hãy chú tâm trọn vẹn vào tâm của chính mình. Ở đó bạn sẽ thấy cả thế gian.
Trong một hồ nước trong suốt và phẳng lặng, ta có thể nhìn thấy rõ ràng mọi thứ. Tâm, khi được nghỉ hoàn toàn, thì tĩnh lặng. Khi tâm tĩnh lặng, trí tuệ sinh khởi dễ dàng, trôi chảy. Khi trí tuệ trôi chảy, hiểu biết rõ ràng sẽ theo sau. Bản chất luôn biến đổi, bất toại nguyện và không thực của thế gian được thấy nhờ ánh sáng của tuệ giác, và chúng ta trở nên nhàm chán với dính mắc vào mớ đau khổ này và buông bỏ sự nắm giữ của ta. Trong khoảnh khắc mát mẻ đó, lửa trong tim ta dịu đi và sự giải thoát khỏi đau khổ tự nhiên khởi sinh. Biến chuyển này xảy ra vì bản chất của tâm nguyên thủy luôn trong sạch và không tì vết. Thanh tịnh là trạng thái bình thường của tâm. Nó bị tì vết chỉ vì nó cho bên ngoài xâm nhập vào, làm các cảm xúc như buồn và vui khởi lên và tăng trưởng cho đến khi tâm trở nên đui mù hoàn toàn về bản chất thực sự của chính mình. Cuối cùng, nó bị ngập trong nước tối đen của thế gian, bơi điên loạn trong vũng tham ái của chính mình.
Mọi thứ đều do tâm ta tạo ra. Mắt nhìn thấy hình ảnh, tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân cảm giác xúc chạm, ý trải nghiệm cảm xúc. Nhưng tâm biết tất cả những thứ ấy. Tâm biết những điều đó và nghĩ về chúng, tưởng tượng chúng thành những thứ thế này, thế kia. Khi chánh niệm và trí tuệ của ta đủ mạnh, ta có thể tự nhìn thấy những tạo tác này. Nhưng đa phần ô nhiễm mang ta đi theo luồng, theo đà tự nhiên mạnh mẽ của chúng. Trước khi ta nhận ra được cái gì đã xảy ra, ta đã trở nên sân hận, tham lam, ảo vọng hoặc kiêu ngạo – vì ta đã bị ô nhiễm lừa dối. Do đó, hãy quan sát ô nhiễm và triều cường lên xuống của những suy nghĩ ô nhiễm đó một cách cẩn thận. Đừng để chúng đánh lừa bạn một cách dễ dàng. Khi bạn thành thục trong việc tóm bắt được hoạt động của chúng, bạn có thể chuyển sức mạnh tiêu cực của chúng thành năng lượng tâm linh tích cực.
Hãy cố gắng chăm chỉ và kiên nhẫn. Bạn tiến bộ nhanh hay chậm phần lớn phụ thuộc vào kho xu hướng đức hạnh bạn đã tích lũy được trong quá khứ và vào sự cố gắng mà bạn bỏ ra cho việc thiền hành và thiền tọa. Do đó, hãy luôn vun trồng phạm hạnh và đừng bao giờ cho phép những ý nghĩ xấu xa len vào tâm. Bạn càng thực hành cách này nhiều bao nhiêu, tâm càng trở nên trong sạch hơn, và sự hiểu biết của bạn sẽ càng đầy đủ hơn. Khi hiểu biết về cốt lõi thực sự của tâm đơm hoa và rực nở trong tâm bạn, điểm cuối của con đường dài đau khổ sẽ dần hiện ra.
Nhưng nếu bạn không vun trồng chánh niệm và trí tuệ sẵn có của mình, mà chỉ cố gắng nửa vời, chướng ngại trên đường đi của bạn sẽ tăng lên gấp bội cho đến khi chúng che khuất mọi ngả, làm đoạn cuối của con đường mãi chìm trong bóng tối.
Mọi người nói rằng họ muốn đạt được Niết bàn, do đó họ nghển cổ và nhìn lên sự mênh mông của không gian. Họ không nhận ra rằng họ có nhìn được xa và cố gắng đến đâu, họ cũng không tìm thấy được Niết bàn. Đơn giản nó không có trong cõi của hiện thực quy ước.
Pháp hành tôi đã tu tập suốt bao năm không dễ làm – nó rất khó. Tôi đã chịu đựng nhiều khó khăn để thử quyết tâm và khả năng chịu đựng của mình trên đường Đạo. Tôi đã nhịn ăn nhiều ngày. Tôi đã không ngủ nhiều đêm. Chịu đựng đã trở thành thực phẩm nuôi dưỡng tâm tôi và tinh tấn đã trở thành gối đỡ đầu tôi. Bạn hãy tự mình thử đi. Hãy thử thách quyết tâm của bạn. Bạn sẽ phát hiện ra sức mạnh kỳ diệu trong tâm của chính mình.
Hãy là một nữ tu thực thụ. Bạn chẳng muốn làm thối chí của mình bằng cát bụi đầy hôi thối của đời sống trần tục, do đó đừng ngoảnh lại, nhớ nhung quê hương và gia đình của mình. Đừng làm tu nữ lười nhác nói chuyện nhiều và xin giúp đỡ. Hãy luôn hài lòng với cuộc sống đơn giản và đừng bao giờ sợ chết. Đừng bao giờ nói những điều không cần nói; nhưng ngược lại, hãy nói những vấn đề thực sự quan trọng. Tu nữ của tôi phải luôn hành xử đúng. Nếu các bạn thực sự muốn là đệ tử của tôi, hãy chú ý những lời tôi nói. Khi tôi than phiền về hành xử của các bạn, hãy hiểu là tôi đang dạy các bạn luôn theo gương tôi trong mọi việc bạn làm.
Các bạn là những người đã đến đây làm học trò của tôi, hãy nỗ lực trở thành những con người mẫu mực. Hãy là những tu nữ xinh đẹp luôn nhẫn nại trong việc chịu đựng khó khăn và chăm chỉ trong việc hành thiền, luôn cố gắng học sự thật về chính mình.
Học trò của tôi phải tin vào con đường của Đức Phật, quyết tâm tập trung vào từng bước tiến lên phía trước. Không nên luyến tiếc những cơ hội đã qua hoặc trông mong vào những phần thưởng tương lai. Những ý nghĩ đó chỉ lừa gạt bạn thôi. Hãy chiến đấu chống lại sự lười nhác, đừng dễ dàng đầu hàng trên gối của mình. Hãy kiểm soát suy nghĩ của bạn nghiêm ngặt và chỉ đi tìm sự thật nằm trong tâm của chính mình.
Trước khi hỏi, hãy tìm câu trả lời trong bạn trước. Nếu bạn tìm, thường bạn sẽ tự mình thấy câu trả lời.
Trong việc thực hành Phật Pháp, bạn cần tìm đường đi cho riêng mình. Bạn phải tự tìm tòi và khám phá con đường đoạn tận khổ đau. Cách tìm đúng đắn là nhìn vào trong bản thân mình. Con đường đó nằm trong tâm của mỗi chúng ta. Do đó, hãy cứng rắn và chăm chỉ cho đến khi bạn đến được đích cuối cùng.
Con người đau khổ vì họ chỉ biết vơ vào chứ không biết buông ra. Bất toại nguyện theo họ khắp mọi nơi. Do đó hãy nhìn lại chính tâm mình và học cách buông bỏ.
Đừng nghi ngờ giá trị của việc hành thiền. Đừng đánh giá thấp khả năng của mình. Hãy tự hài lòng với tiến bộ của mình vì nó phản ánh một phần của sự thật mà bạn đang tìm kiếm. Vì vậy, đó là cái bạn có thể tin cậy được. Hãy nhìn lại xem bạn là ai: Ai sinh ra, ốm, già đi và chết? Thân bạn, tâm bạn, cuộc sống của bạn – những thứ đó không thuộc về bạn. Đừng chăm bón bản chất thực của bạn bằng đau khổ của thế gian.
Từ ngày tôi xuất gia làm tu nữ, tôi chưa bao giờ bỏ việc thanh lọc cái tâm đầy ô nhiễm của tôi. Tôi luôn biết rằng tôi cần đánh bóng và thanh lọc bản chất cơ bản của tôi.
Chỉ có người có trí thực sự mới có thể nương tựa dưới bóng mát của ba cây bồ đề của Đức Phật, Đức Pháp và Đức Tăng.
^^^
Về tác giả
Bhikkhu Sīlaratano sinh ra với tên Richard E. Byrd, Jr. tại Winchester, Virginia năm 1948. Ngài bắt đầu cuộc đời của một tu sĩ Đạo Phật năm 1975 tại Bangalore, Ấn Độ, nơi ngài xuất gia thành sāmaṇera với Hòa Thượng Buddharakkhita Thera.
Khi vẫn còn là sāmaṇera, ngài rời đến Srilanka, thọ thành bhikkhu đầy đủ tại Sri Vajiragnana Dharmayatanaya tại Maharagama vào tháng 6 năm 1976.
Đầu năm 1977, Bhikkhu Sīlaratano đến Thái Lan, nơi ngài thọ Dhammayutha Nikāya tại Wat Bovornives Vihāra ở Bangkok vào ngày 21 tháng 4 năm 1977. Không lâu sau đó, ngài chuyển đến Thiền viện Trong rừng Baan Taad thuộc tỉnh Udon Thani, nơi ngài đã sống và tu tập theo Hòa thượng Ajaan Mahā Boowa Ñāṇasampanno và các đệ tử lâu năm của hòa thượng kể từ đó.
Các sách khác của Bhikkhu Sīlaratano gồm có Ācariya Mun Bhūridatta Thera: A Spiritual Biography (Ācariya Mun Bhūridatta Thera: Bức chân dung tinh thần) và Arahattamagga Arahattaphala: The Path to Arahantship (Arahattamagga Arahattaphala: Đường tới đạo quả Alahán).
^^^
Các ấn phẩm khác của Forest Dhamma Books (tiếng Anh)
Samana — Luangta Mahā Boowa
Venerable Ācariya Mun Bhūridatta Thera — A Spiritual Biography
Paṭipadā — Venerable Ācariya Mun’s Path of Practice
Venerable Ajaan Khao Anālayo — A True Spiritual Warrior
Arahattamagga Arahattaphala — The Path to Arahantship
Wisdom Develops Samādhi — Guide to Buddha’s Meditation Methods
Forest Dhamma — A Selection of Talks on Buddhist Practice
The Dhamma Teaching of Ācariya Mahā Boowa in London
A Life of Inner Quality — A Comprehensive Guide to Buddhist Practice
Things As They Are — A Collection of Talks on Training the Mind
Straight from the Heart — Talks on the Practice of Meditation
Amata Dhamma — Six Talks on Dhamma
Forest Desanās
Để tải miễn phí, xin vào:
www.ForestDhamma.org
Địa chỉ liên hệ:
fdbooks@gmail.com
-ooOoo-
Không có nhận xét nào